13:57 | 20/10/2022
Những tư tưởng của ông góp phần làm thay đổi tư duy của một bộ phận những dân tộc chịu áp bức, từ đó giúp họ đứng lên giành lại độc lập và thoát ra cảnh lầm than.
Các Mác sinh ngày 5/5/1818, trong một gia đình trung lưu ở thành phố Rhineland, Trier – Đức. Ở tuổi 17, Mác tiếp thu nền giáo dục cổ điển và ông học tập một năm tại khoa luật thuộc Đại học Bonn. Năm 18 tuổi ông và bà Jenny von Westphalen (1814 - 1881) đính hôn. Ông bắt đầu chịu ảnh hưởng bởi triết lý của G.W.F Hegel mà sau đó chi phối phong trào Chủ nghĩa duy tâm Đức.
Gia đình Các Mác chụp cùng Ăngghen |
Sau khi hoàn thành luận án tiến sỹ, ông chuyển sang báo chí và bắt đầu cộng tác với tờ Rheinische Zeitung. Ông nhanh chóng trở thành chủ bút, nhưng sau đó bị các nhà chức trách cho đóng cửa tờ báo vào tháng 5/1843 và Các Mác chuyển về lại Paris.
Khi ở Paris ông đã phát triển hiệp hội lâu dài với Ph. Ăngghen, và đặt ra những suy luận về chủ nghĩa cộng sản mà ngày nay được biết đến cái được gọi là Các bản thảo ở Paris. Sau khi bị trục xuất khỏi Pháp, ông chuyển đến Brussels và ghi chép lại những tư tưởng triết học phát triển trong Luận cương về Feuerbach.
Vào năm 1846, Các Mác đã cùng Ăngghen viết Hệ tư tưởng Đức, đây là văn bản đặt nền móng cho Tuyên ngôn Đảng Cộng sản. Quay lại Pháp, ông bắt đầu làm việc cho một loạt các tờ rơi về Đấu tranh giai cấp ở Pháp và trong thời điểm này, năm 1848, ông cùng Ăngghen xuất bản Tuyên ngôn Đảng Cộng sản.
Sau khi chuyển đến London năm 1849, Các Mác đã cống hiến nhiều năm nỗ lực cho tác phẩm chính là Tư bản - một tác phẩm về kinh tế chính trị quan trọng của Các Mác được viết bằng tiếng Đức. Cuốn sách là sự phân tích về chủ nghĩa tư bản, về phương thức sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Với khẩu hiệu là "Công nhân của thế giới đoàn kết" là lời kêu gọi tập hợp cho phong trào cách mạng Bolshevik của Nga và cuộc cách mạng năm 1949 của Trung Quốc; và vận động của Các Mác “Mỗi người làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu” đã trở thành nguồn cổ vũ cho các Đảng cộng sản trên khắp thế giới.
Trước Chiến tranh thế giới thứ I, các tác phẩm của Các Mác làm nổi lên một số phản hồi tích cực từ bên ngoài Đông Âu. Sự hỗ trợ nhiệt tình từ Lênin là nhân tố chủ chốt ảnh hưởng đến những cuộc cách mạng ở Nga, và một phần hệ tư tưởng chính thống của Liên Xô được hướng theo bởi ảnh hưởng thời kỳ hậu chiến. Năm 1920, Tổ chức Frankfurt, một tổ chức của các trí thức đã họp lại nhằm thảo luận và phổ biến chủ nghĩa Mác, sau đó họ được sự tham gia của nhà triết học Mỹ Herbert Marcuse.
Chủ nghĩa Mác đã trở thành một lực lượng chủ chốt trong giới tri thức Tây Âu và những nước nói tiếng Anh trong những năm 1930, ảnh hưởng trí tuệ của chủ nghĩa Mác đạt đỉnh điểm vào những năm 1970, nhưng sau đó bị từ chối. Những di sản trí tuệ còn sót lại của Mác bị giới hạn trong các nguyên lý của triết học.
Di sản Các Mác để lại cho đời rất nhiều. Chủ nghĩa Mác đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của các quốc gia, khi đó, là đỉnh điểm của họ, cái được xem như cuộc đua sinh tồn thứ 3. Những lý luận của ông cũng đã ảnh hưởng đến sự xuất hiện của các phong trào dân chủ xã hội chủ nghĩa mà trước đây đã từng không chấp nhận, hoặc cấm đoán không xem chủ nghĩa Mác như là một hệ tư tưởng của họ.
Một số tác phẩm của ông đặc biệt là Tuyên ngôn Cộng sản quen thuộc với hàng triệu nhà hoạt động chính trị trên toàn thế giới, đây cũng chính là nhân tố chính trong việc áp dụng các hình thức của Chủ nghĩa Cộng sản bởi Liên Xô, và tiếp theo là các chính phủ Cuba, Venezuela, Bolivia, Nicaragua, và các quốc gia khác.
Trong suốt những năm sau của cuộc đời cho đến khi ông qua đời vào năm 1883, Các Mác là một người ủng hộ tích cực của Liên đoàn Cộng sản, mà sau này trở thành Quốc tế Cộng sản.
Đường dẫn bài viết: //slyers.com/cuoc-doi-va-nhung-cong-hien-cua-nha-tu-tuong-vi-dai-cac-mac-223712.html
In bài viếtBản quyền thuộc về "Vuasanca Điện Tử", chỉ được dẫn nguồn khi có thỏa thuận bằng văn bản.