Bộ Tài chính ý kiến về việc đề nghị Hoa Kỳ công nhận kinh tế thị trường cho Việt Nam
Văn bản khác 07/02/2024 13:37
Bộ Tài chính nói về tín hiệu tích cực của thị trường trái phiếu, chứng khoán Thúc đẩy sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam |
Cụ thể, Bộ Tài chính có Công văn số 1477 /BTC-HTQT ngày 5/2/2024 trả lời Công văn số 233/BCT-PVTM ngày 11/01/2024 của Bộ Công Thương đề nghị cung cấp bổ sung thông tin phản biện trong vụ việc đề nghị Hoa Kỳ công nhận kinh tế thị trường cho Việt Nam, Bộ Tài chính cho ý kiến như sau:
Bộ Tài chính. Ảnh: VGP |
Một là, về việc phía Hoa Kỳ sử dụng thông tin từ báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) năm 2022 về quản trị công ty trong doanh nghiệp nhà nước để cho rằng Nhà nước Việt Nam can thiệp vào hệ thống ngân hàng để cho các doanh nghiệp nhà nước vay các khoản vay ưu đãi là không có căn cứ, cụ thể: Hoạt động tín dụng của Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) do VDB tự thẩm định và quyết định cho vay các khách hàng, Nhà nước không can thiệp. Chính sách tín dụng xuất khẩu tại VDB đã dừng triển khai từ năm 2017.
Từ năm 2017, VDB cũng chưa thực hiện cho vay mới tín dụng đầu tư. Cơ chế mức lãi suất tín dụng đầu tư tại Nghị định số 78/2023/NĐ-CP ngày 07/11/2023 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2017/NĐ-CP được quy định theo hướng VDB tự quyết định, đảm bảo nguyên tắc đủ bù đắp chi phí huy động vốn, chi hoạt động bộ máy và chi phí trích lập dự phòng rủi ro đối với các khoản nợ vay mới, không thấp hơn 85% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước trong cùng thời kỳ; ngân sách nhà nước không cấp bù lãi suất và phí quản lý đối với các khoản nợ vay này.
Đối tượng áp dụng chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước thông qua VDB hiện nay là các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính và tổ chức kinh tế khác là chủ đầu tư dự án thuộc Danh mục vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước. Do đó, đối tượng vay vốn tại VDB bao gồm cả thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước có các dự án đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, nông nghiệp, công nghiệp theo mục tiêu phát triển của đất nước, không phải chỉ nhằm phục vụ riêng thành phần kinh tế nhà nước.
Vì vậy, chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước hiện hành đã tương đồng với cơ chế thị trường và các ngân hàng thương mại, nhằm mục đích cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho các dự án đầu tư lớn (không phân biệt chủ đầu tư là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp tư nhân), thời gian thi công dài, có rủi ro cao nhưng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước như các dự án hạ tầng giao thông, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, công nghiệp trọng điểm, năng lượng tái tạo...
Hai là, về tỷ trọng dư nợ cho vay đối với đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án phục vụ công cộng khác so với dư nợ cho vay để đầu tư kinh doanh sản xuất của các doanh nghiệp thuộc nhóm vay tín dụng đầu tư trong năm 2022: Dư nợ tín dụng đầu tư của VDB tại thời điểm cuối năm 2023 chiếm tỷ trọng rất nhỏ, không đáng kể so với dư nợ tín dụng toàn nền kinh tế, chỉ chiếm khoảng 0,3%. Dư nợ tín dụng đầu tư cho vay các doanh nghiệp nhà nước tại thời điểm cuối năm 2023 chỉ chiếm 22,64% nguồn vốn huy động từ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh.
Ba là, về nhận định “Lãi suất trái phiếu kho bạc và trái phiếu doanh nghiệp của VDB bằng nhau": VDB được huy động vốn để cho vay từ nhiều nguồn hợp pháp khác nhau, trong đó có phát hành Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh (TPCPBL). Theo quy định tại Nghị định số 91/2018/NĐ-CP ngày 26/06/2018 của Chính phủ về cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ: Ngân hàng chính sách (trong đó có VDB) tổ chức phát hành TPCPBL theo phương thức đấu thầu (Nhà nước không can thiệp) theo quy định của pháp luật về phát hành công cụ nợ của Chính phủ; Ngân hàng chính sách có trách nhiệm thanh toán gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn bằng các nguồn vốn hợp pháp của mình; (việc bảo lãnh phát hành TPCPBL cho ngân hàng chính sách là bảo lãnh có điều kiện.
Lãi suất phát hành TPCPBL do ngân hàng chính sách (trong đó có VDB) tự quyết định căn cứ vào tình hình thị trường tại thời điểm phát hành. Thực tế, lãi suất phát hành TPCPBL luôn cao hơn lãi suất phát hành trái phiếu Chính phủ, cụ thể đối với thời điểm phát hành TPCPBL gần nhất của VDB (tháng 12/2021), so sánh lãi suất phát hành như sau:
| Kỳ hạn 5 năm, | Kỳ hạn 10 năm |
Lãi suất phát hành TPCP | Ngày 25/11/2021: 0,76% | Ngày 23/12/2021: 2,08%
|
Lãi suất phát hành TPCPBL | Ngày 20/12/2021: 1,12% | Ngày 20/12/2021: 2,5% |
Kỳ hạn 5 năm, kỳ hạn 10 năm; lãi suất phát hành ngày 25/11/2021: 0,76%; Ngày 23/12/2021: 2,08%; TPCP Lãi suất phát hành Ngày 20/12/2021: 1,12% Ngày 20/12/2021: 2,5% TPCPBL.
Do đó, Bộ Tài chính nêu rõ nhận định “lãi suất trái phiếu kho bạc và lãi suất TPCPBL của VDB giống hệt nhau” và việc “VDB phát hành TPCPBL để cho các doanh nghiệp nhà nước vay các khoản vay ưu đãi” của phía Hoa Kỳ là chưa đúng với thực tế, đề nghị bỏ các nhận định này.