Còn nhiều lỏng lẻo trong quy định du lịch outbound.
CôngThương - Theo thống kê của Hiệp hội lữ hành Việt Nam, hiện nay, có khoảng 1.000 công ty kinh doanh lữ hành quốc tế, trong đó chỉ khoảng 30% là kinh doanh đưa khách vào Việt Nam (inbound), khoảng 70% là kinh doanh đưa người Việt Nam ra nước ngoài (outbound). Nhưng Luật Du lịch về cơ bản chỉ tập trung quản lý đối với loại hình inbound, chưa thể hiện sự ưu tiên đối với loại hình kinh doanh này (tương tự như ưu tiên xuất khẩu) và buông lỏng, không quản lý loại hình outbound (như nhập khẩu) về bảo hiểm du lịch, do vậy khách du lịch outbound không thể kiểm soát, khi có sự cố gây khó khăn cho các DN và người đi du lịch.
Ông Vũ Thế Bình- Phó chủ tịch Hiệp hội Du lịch Việt Nam cho hay, ước tính mỗi năm có hàng triệu người Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Doanh thu của mảng kinh doanh du lịch outbound lên đến hàng tỉ USD/năm và luồng tiền chi tiêu của du khách ở nước ngoài cũng khá lớn. Nhiều năm qua, đi du lịch ra nước ngoài coi như là nguyên nhân gây chảy máu ngoại tệ nên không được nhắc đến trong các báo cáo về phát triển du lịch và không được kiểm soát.
“Với trường hợp khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài, nếu bắt buộc phải mua bảo hiểm thì nhiều công ty chỉ làm qua quýt cho có, cấu kết với các công ty bảo hiểm để có mức giá bảo hiểm cho khách du lịch Việt cực thấp, thường chỉ có một câu rất chung chung “Bảo hiểm suốt tuyến” chứ không nói là bao nhiêu”- ông Vũ Thế Bình nói.
Đáng nói là hiện cơ quan chức năng gần như không có bất cứ thống kê, khảo sát hay quy định chặt chẽ nào về mảng du lịch outbound. Quan điểm là cơ quan quản lý nhà nước không cấm doanh nghiệp kinh doanh outbound nhưng phải kiểm soát được, phải biết được chính xác lượng khách ra nước ngoài, mức chi tiêu của khách, bảo hiểm và những vấn đề an toàn, an ninh của khách để có thể xử lý và bảo vệ khách khi có sự cố.
Tại hội thảo sửa đổi, bổ sung Luật Du lịch mới đây, nhiều đại diện DN lữ hành bức xúc cho rằng, trong khi các doanh nghiệp inbound mỗi năm thu hút nhiều triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam, đem lại doanh thu nhiều tỉ USD cho đất nước phải chịu rất nhiều những quy định chặt chẽ thì mảng outbound (làm chảy máu nhiều ngoại tệ) lại chỉ chịu những quy định lỏng lẻo. Một trong những điều kiện là có 3 hướng dẫn viên nhưng không qui định cụ thể phải là biên chế làm việc lâu dài mà chỉ dừng ở mức có hợp đồng lao động, do vậy, dẫn đến tình trạng một hướng dẫn viên có thể ký hợp đồng với nhiều doanh nghiệp.
Ông Phùng Quang Thắng (Hiệp hội Lữ hành Việt Nam) cho biết: “Thực tế các công ty nhỏ không có 3 hướng dẫn viên làm việc lâu dài, thậm chí sau khi xin giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế xong thì không còn hướng dẫn viên nào làm việc cố định cho doanh nghiệp đó nữa. Cũng không có cơ quan nào giám sát việc duy trì điều kiện phải có 3 hướng dẫn viên, như vậy qui định số lượng hướng dẫn viên sẽ là hình thức và chỉ cần khi làm thủ tục xin giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế”.
Việc không kiểm soát và buông lỏng đối với kinh doanh lữ hành outbound cũng như những quy định của Luật chưa chặt chẽ, theo ông Vũ Thế Bình là vì kinh nghiệm phát triển du lịch của Việt Nam còn ít, đội ngũ quản lý và kinh doanh du lịch có kinh nghiệm và kiến thức về du lịch không nhiều, do đó khó có thể đưa ra được các bước đi có tầm cỡ lâu dài cho các nội dung của Luật. Đặc biệt, đất nước trong thời kỳ hội nhập, hàng loạt quy định phải thay đổi, du lịch là ngành kinh tế đối ngoại, nên một số quy định bị lạc hậu, vì vậy nhu cầu bổ sung, sửa đổi là cần thiết.
Do vậy, để xác định vai trò của kinh doanh lữ hành outbound, inbound ông Phùng Quang Thắng kiến nghị: DN lữ hành quốc tế bao gồm khách vào Việt Nam và khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài nên nên tách, phân biệt riêng hai loại hình kinh doanh để có quy định phù hợp với từng đối tượng là khách vào Việt Nam và khách Việt Nam đi du lịch nước ngoài. Cần ưu tiên đối với kinh doanh đưa khách vào Việt Nam, kiểm soát chặt hơn, tăng điều kiện kinh doanh đối với loại hình kinh doanh đưa khách Việt Nam ra nước ngoài.
Bên cạnh đó, để có sự kiểm soát được hoạt động của DN lữ hành quốc tế, ông Nguyễn Tiến Việt (Hiệp hội lữ hành Việt Nam) cho rằng, cần phải có thanh tra du lịch. Bởi, mọi hoạt động quản lý du lịch sẽ thiếu đi tính thực tiễn nếu không có các hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên. Vì vậy, nếu muốn các hoạt động du lịch đi đúng hướng, thực hiện Luật Du lịch một cách nghiêm túc thì ngành du lịch phải có thanh tra du lịch trực tiếp thuộc ngành. Lực lượng thanh tra du lịch không những thanh tra các hoạt động du lịch mà còn phải tham gia vào việc bảo vệ quyền lợi của khách du lịch.