Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chính từ khu vực này vẫn là hạt điều, bông, gỗ và sắt thép phế liệu, kim loại. Bên cạnh đó, Việt Nam nhập khẩu trở lại mặt hàng khí đốt hóa lỏng từ Angola và Nigeria, sản phẩm đá quý và kim loại quý từ Maurtitus, thức ăn gia súc và nguyên liệu từ Tanzania. Đặc biệt trong quý 4/2014, Việt Nam đã nhập khẩu dầu thô từ Cộng hòa Congo với kim ngạch lên tới 75,3 triệu USD.
Mặc dù kim ngạch nhập khẩu giảm nhẹ (2%) so với năm 2013, song Bờ Biển Ngà (Côte d’Ivoire) vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam tại châu Phi, đạt giá trị 250 triệu USD. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm hạt điều (180 triệu USD), bông (64 triệu USD), gỗ và sản phẩm gỗ (2,1 triệu USD), cà phê (1,6 triệu USD).
Thị trường có kim ngạch nhập khẩu lớn thứ hai là Nam Phi, đạt 144 triệu USD, giảm 7%. Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chính gồm sắt thép phế liệu (41,1 triệu USD), chất dẻo nguyên liệu (19,4 triệu USD), nguyên phụ liệu dệt may, da giày (17,2 triệu USD), kim loại thường (14 triệu USD), sản phẩm hóa chất (10,5 triệu USD), hàng rau quả (6,2 triệu USD), đồng (5,3 triệu USD), sắt thép các loại (4,6 triệu USD), quặng và khoáng sản (4,1 triệu USD), ...
Đứng thứ ba là thị trường Cameroon với kim ngạch nhâp khẩu đạt 122,7 triệu USD, tăng 37%, trong đó gỗ và sản phẩm gỗ chiếm 103,8 triệu USD, bông các loại 18,7 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ CH Congo đạt 109,6 triệu USD, tăng 502%, trong đó dầu thô chiếm 75,3 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 17 triệu USD, đồng 16,9 triệu USD.
Thị trường có kim ngạch nhập khẩu lớn tiếp theo là Tanzania, đạt 105 triệu USD, tăng 30% so với năm 2013. Các mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chính từ thị trường này gồm hạt điều (47,2 triệu USD), bông các loại (37,7 triệu USD), thức ăn gia súc và nguyên liệu (16,7 triệu USD).
Tiếp đến là thị trường Nigeria với kim ngạch đạt 98,87 triệu USD, tăng 42%. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm hạt điều (70 triệu USD), gỗ và sản phẩm gỗ (17,6 triệu USD), khí đốt hóa lỏng (7,4 triệu USD), hàng rau quả (2 triệu USD).
Kim ngạch nhập khẩu từ Ghana đạt 84 triệu USD, giảm 12%, trong đó hạt điều chiếm 64,6 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 8,4 triệu USD, sắt thép phế liệu 7,8 triệu USD, bông các loại 2 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Benin đạt 77,1 triệu USD, tăng 17%, trong đó bông các loại đạt 31,5 triệu USD, hạt điều 30 triệu USD, sắt thép phế liệu 9,8 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 5,6 triệu USD.
Mauritius cũng là một thị trường nhập khẩu quan trọng của Việt Nam tại châu Phi với kim ngạch đạt 72,8 triệu USD, tăng 48%. Các mặt hàng nhập khẩu quan trọng gồm sản phẩm đá quý và kim loại quý (65 triệu USD), sắt thép phế liệu (4,1 triệu USD), hàng hải sản (1,6 triệu USD), thức ăn gia súc và nguyên liệu (1,1 triệu USD).
Tiếp theo là thị trường Mali với kim ngạch đạt 71 triệu USD, tăng 20%. Mặt hàng Việt Nam nhập khẩu chính từ Mali là bông, chiếm tới 70,97 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu từ Burkina Faso đạt 56 triệu USD, tăng 10%, trong đó bông chiếm 48,9 triệu USD, hạt điều 7,7 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu từ Guinea đạt 54,1 triệu USD, tăng 148%, trong đó hạt điều chiếm 40,7 triệu USD, sắt thép phế liệu 9,5 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 3,1 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Togo đạt 52,1 triệu USD, tăng 48% trong đó sắt thép phế liệu chiếm 21,44 triệu USD, bông các loại 17,3 triệu USD, hạt điều 11,4 triệu USD, gỗ và sản phẩm gỗ 2 triệu USD.
Kim ngạch nhập khẩu từ Angola đạt 35,2 triệu USD, tăng hơn 164% so với năm 2013, trong đó khí đốt hóa lỏng chiếm 18,5 triệu USD, sắt thép phế liệu 15,5 triệu USD.
Những lưu ý khi kinh doanh tại châu Phi
Thời gian vừa qua đã xảy ra hiện tượng doanh nghiệp châu Phi lừa tiền đặt cọc của nhà nhập khẩu Việt Nam, không chịu giao hàng hoặc không không thanh toán tiền hàng khi nhập khẩu như cam kết trong hợp đồng.
Để tránh những rủi ro và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại thị trường châu Phi, doanh nghiệp cần:
- Tích cực tham gia các đoàn nghiên cứu chính sách, khảo sát thị trường do Bộ Công Thương và các cơ quan XTTM tổ chức; tham dự các hội chợ, triển lãm quốc tế tổ chức tại mỗi nước và các cuộc hội thảo, diễn đàn doanh nghiệp song phương.
- Chủ động tìm kiếm thông tin thị trường, cơ hội kinh doanh trên các trang web chính thức như trang , trang của Bộ Công Thương, qua Vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á (Bộ Công Thương) cũng như các Thương vụ, Đại sứ quán Việt Nam tại châu Phi (An-giê-ri, Ai Cập, Maroc, Nam Phi, Nigeria) và Đại sứ quán các nước châu Phi tại Việt Nam. Hạn chế việc tìm kiếm và giao dịch với khách hàng qua các trang mạng internet.
- Liên quan đến vấn đề thanh toán xuất nhập khẩu, doanh nghiệp nên đề nghị đối tác sử dụng L/C không hủy ngang mở tại các ngân hàng uy tín, đồng thời hạn chế cho khách hàng trả chậm. Tuyệt đối không nên sử dụng hình thức thanh toán D/A (Document Acceptance - nhờ thu chấp nhận chứng từ) đối với các khách hàng ở châu Phi bởi một khi khách hàng đề nghị hình thức thanh toán này, rất có thể doanh nghiệp xuất khẩu sẽ bị mất hàng. Nếu sử dụng hình thức thanh toán D/P, doanh nghiệp Việt Nam cần phải kèm theo điều khoản tiền đặt cọc (deposit). Tùy từng mặt hàng, doanh nghiệp cần đưa ra các mức % đặt cọc để bảo đảm an toàn cho các đơn hàng của mình (tốt nhất là 30% trở lên).
- Về nhập khẩu hàng từ châu Phi, cần tiến hành kiểm định hàng hóa thông qua tổ chức giám định quốc tế có uy tín tại nước sở tại trước khi đưa hàng lên tàu (qua các công ty như Bitec International SA, Văn phòng Veritas). Doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng đàm phán với nhà cung cấp để không phải đặt cọc tiền hoặc đặt cọc tối thiểu. Đối với những đơn hàng đầu tiên, chỉ nên mua với khối lượng nhỏ. Tốt nhất trong thời gian đầu, doanh nghiệp nên cử người sang giám sát việc thu mua và giao hàng ở nước sở tại.
- Khi đàm phán và ký kết hợp đồng với đối tác châu Phi, các doanh nghiệp nên lựa chọn những phương thức giao hàng, thanh toán an toàn, có lợi về mình. Hợp đồng phải có điều khoản ghi rõ cơ quan giải quyết tranh chấp (trọng tài hay tòa án) để làm cơ sở cho việc giải quyết khi có tranh chấp phát sinh.