Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sắp có hiệu lực sẽ là điều kiện thuận lợi thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu của Việt Nam, nhất là các lĩnh vực dệt may, da giày. Tuy nhiên, để hưởng lợi từ Hiệp định này, ngoài việc nghiên cứu thỏa mãn các yêu cầu khắt khe của EVFTA thì thị trường vẫn là bài toán mà bất cứ doanh nghiệp dệt may, da giày nào cũng phải tìm lời giải.
Hãy lắng nghe chia sẻ của ông Nguyễn Trọng Phi - Chủ tịch HĐQT Giovanni Group - với phóng viên Vuasanca xung quanh câu chuyện cần làm gì để thời trang Việt "cất cánh"!
*****
Ông hãy đánh giá thực trạng nền sản xuất ngành dệt may, da giày của Việt Nam hiện nay? Đặc biệt, Hiệp định EVFTA mang lại cơ hội như thế nào đối với các ngành này trong tương lai?
Từ xưa đến nay, dệt may, da giày Việt Nam chủ yếu làm gia công sản xuất cho các thương hiệu quốc tế, nhất là thương hiệu Âu Mỹ. Khi trào lưu dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu ra khỏi Trung Quốc diễn ra vào năm 2018 và ngày hôm nay lại càng dồn dập. Đặc biệt, EVFTA là một lực hút khiến Việt Nam trở nên sáng giá trong Top các quốc gia trở thành trung tâm mới của chuỗi cung ứng toàn cầu. EVFTA ưu đãi thuế quan cho các sản phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ Việt Nam sang EU và ngược lại.
Tuy nhiên, hiệp định này không đề cập tới sản phẩm đó mang thương hiệu nào, chủ sở hữu cơ sở sản xuất là ai. Nếu 1 đôi giày sản xuất trên lãnh thổ Việt Nam, bởi người Việt Nam, đáp ứng đầy đủ các nguyên tắc xuất xứ để được hưởng lợi từ EVFTA nhưng chủ sở hữu cơ sở sản xuất lại là người nước ngoài thì nhìn chung, bản chất Việt Nam vẫn tiếp tục gia công cho ngoại quốc và những thành quả của EVFTA thực tế lại phục vụ cho doanh nghiệp nước ngoài. Để doanh nghiệp, người lao động Việt Nam có thể tận hưởng nhiều lợi ích hơn từ EVFTA, Chính phủ và doanh nghiệp cần nhanh chóng có những chiến lược tầm quốc gia cho vấn đề này, đặc biệt là góc độ ngành dệt may, da giày.
EVFTA là cơ hội lớn, tuy nhiên tận dụng được hết các cơ hội đó, doanh nghiệp Việt cần phải đáp ứng vô số các điều kiện khắt khe từ thị trường EU, đặc biệt là điều kiện về nguồn gốc xuất xứ nguyên phụ liệu. Ông có đánh giá như thế nào về vấn đề này?
EVFTA đề cao sự tối ưu nguồn gốc xuất xứ nguyên phụ liệu cấu thành nên sản phẩm. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, ngành dệt may lệ thuộc đến 90% nguồn nguyên phụ liệu từ chỉ, cúc đến vải, sợi từ Trung Quốc. Với da giày thì con số đó còn cao hơn nữa. Nội tại ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt may, da giày của Việt Nam gần như còn rất sơ khai. Nếu có thì cũng không đáng kể, hoặc chất lượng sản phẩm không thể đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU. EVFTA đề ra thách thức cho ngành công nghiệp phụ trợ dệt may, da giày của Việt Nam và có thể xem là một cú huých mạnh mẽ để thay đổi.
Sản xuất nguyên phụ liệu không phải là việc của một vài công ty mà lĩnh vực này cần sự quy hoạch của chính phủ thành từng vùng với hệ thống cơ sở hạ tầng được đầu tư bài bản. Thật ra đây là vấn đề đã được bàn thảo nhiều lần. Các địa phương rất “ngại” khi phải tiếp nhận các dự án dệt nhuộm sản xuất vải bởi vấn đề môi trường.
Hiện nay, thế giới đã có những công nghệ sản xuất vải, dệt nhuộm rất hiện đại, thậm chí không cần dùng tới nước để không có nước thải đã được phát triển và giới thiệu tới Việt Nam. Chính phủ cần khuyến khích, tạo điều kiện cho các dự án này được thực thi bằng các chính sách hỗ trợ về đất, thuế, vốn để Việt Nam nhanh chóng có tỷ lệ nội địa hoá cao cho nguyên phụ liệu ngành dệt may, da giày thì chúng ta mới tận dụng được EVFTA triệt để.
Bên cạnh việc đảm bảo quy tắc xuất xứ, trong tầm nhìn dài hạn hơn doanh nghiệp cần phải chuẩn bị những gì để hội nhập với EU?
Trong bối cảnh hội nhập thương mại tự do với EU, các doanh nghiệp chính là nhân tố quyết định tới sự thành công của kinh tế. Cùng với các chính sách mới của Chính phủ, các doanh nghiệp có thể dễ dàng tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, da giày bằng cách hợp tác với các doanh nghiệp châu Âu để mang về những dây chuyền công nghệ hiện đại. Nếu không có doanh nghiệp Việt Nam đứng ra làm đầu mối, chưa chắc doanh nghiệp châu Âu đã sẵn sàng gia nhập thị trường Việt Nam. Việc chúng ta chủ động làm đầu mối cho các đối tác nước ngoài góp phần thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ. Từ đó, Việt Nam sẽ làm quen, tự chủ và học hỏi được những kiến thức hiện đại của thế giới, nhất là trong ngành dệt nhuộm, thuộc da vốn cần nhiều công nghệ hiện đại.
Về dài hạn với tầm nhìn dài hơn, con người mới là bài toán cốt lõi để ngành thời trang Việt Nam cất cánh. Thời điểm này, hệ thống giáo dục của Việt Nam có rất ít chương trình đào tạo về ngành dệt may, da giày, nếu có cũng chỉ là dạy thợ, dạy nghề. Trong khi đó, nếu kỹ thuật từ EU đổ về Việt Nam và chiến lược nâng tầm vị thế ngành dệt may, da giày lên cao đòi hỏi những nhân sự có trình độ cao và rất am tường về lĩnh vực này. Chính vì thế, giải pháp trong ngắn hạn, doanh nghiệp cần cử nhân sự sang châu Âu học tập để rồi phát triển nguồn nhân lực nòng cốt cho lĩnh vực này, có như vậy dệt may, da giày Việt Nam mới hưởng lợi từ EVFTA và ngành thời trang Việt Nam mới mau chóng cất cánh.
Ông có thể chia sẻ về mô hình mới mà Giovanni Group đang thực hiện để tự tin, vững bước trên hành trình chinh phục thị trường EU?
Ở góc độ sản xuất, nếu doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục gia công cho thương hiệu quốc tế, vô hình chung, chúng ta lại chỉ đi làm thuê và EVFTA hoàn toàn phục vụ cho doanh nghiệp châu Âu. Họ sản xuất tại Việt Nam và bán lại cho EU với mức giá rẻ, cuối cùng Việt Nam không hưởng lợi được gì ngoài đồng lương rẻ mạt. Một mô hình mới mà Giovanni Group đang tiến hành hứa hẹn sẽ là một hướng đi mới đầy triển vọng, đó là doanh nghiệp Việt Nam mua các li-xăng sản xuất sản phẩm của các thương hiệu thời trang ngoại quốc, nhất là thương hiệu EU để tự sản xuất, sau đó bán lại cho các thương hiệu đó để họ cung ứng vào chuỗi cung ứng toàn cầu của họ. Cách làm này nghe tưởng đơn giản nhưng nó đòi hỏi nhiều kỹ thuật và nhất là trình độ tay nghề sản xuất ở hạng cao cấp bởi mô hình này chủ yếu chỉ có ở phân khúc thời trang hạng cao. Chỉ có cách làm này, Việt Nam mới có thể tạo ra những giá trị lớn hơn cho chuỗi cung ứng mới và tận dụng tối đa được lợi ích mà EVFTA mang lại.
Ngoài ra, một mô hình giống như cách Giovanni đã làm hơn 15 năm qua hứa hẹn sẽ trở nên phổ biến và hiệu quả ở phân khúc hàng hóa cao cấp khi doanh nghiệp Việt Nam sở hữu hệ thống sản xuất hiện đại và tay nghề chế tác tinh xảo, nhờ EVFTA có thể nhập về những nguyên phụ liệu cao cấp từ chính EU để gia công sản xuất trong những cơ sở chế tác hiện đại sau đó cung ứng không chỉ cho nội địa Việt Nam mà còn hướng tới chinh phục lại EU.
Khi biểu thuế quan được cắt giảm, hàng hóa theo hình thái này sẽ hấp dẫn người tiêu dùng không chỉ về giá mà còn dễ dàng chinh phục họ nhờ yếu tố cao cấp của vật liệu cũng như tay nghề của người Việt Nam xưa nay chưa hề thôi làm thế giới phải trầm trồ.
------------
Bài: Hoàng Lan - Đồ họa: Trang Anh