Phát triển thị trường nội địa gắn kết chặt chẽ với mở rộng thị trường ngoài nước thể hiện đường lối, quan điểm, chính sách xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong nhiều năm qua và giai đoạn sắp tới. ------- |
Các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển thị trường nội địa tại Văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng là căn cứ quan trọng để ngành Công Thương cụ thể hóa thành các nhiệm vụ, giải pháp trong giai đoạn vừa qua. Theo đó, Đảng và Nhà nước xác định phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh, có sức cạnh tranh cao để làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước, góp phần bảo đảm độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Đồng thời, phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ, chú trọng thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hóa Việt Nam. Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, các Hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước, chủ động tham gia mạng lưới phân phối toàn cầu. Trên tinh thần kế thừa và đổi mới, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII năm 2021 của Đảng cũng nêu rõ phương hướng phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025: "Tiếp tục triển khai các giải pháp phát triển bứt phá thị trường trong nước gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam, bảo đảm lợi ích của người tiêu dùng. Đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử và sự hài hòa giữa thương mại điện tử với thương mại truyền thống". |
Bên cạnh đó, từ năm 2009, Ban chấp hành Trung ương đã ban hành Thông báo số 264-TB/TW, thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” nhằm phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc, xây dựng văn hóa tiêu dùng của người Việt Nam và sản xuất ra nhiều hàng Việt Nam có chất lượng, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. |
Ngày 10/4/2015, Ban Bí thư Trung ương Đảng có Kết luận số 107-KL/TW tiếp tục yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Ngoài ra, Nghị quyết số 35/NQ-CP năm 2016 của Chính phủ đã đặt ra nhiệm vụ “Xây dựng Đề án tổ chức lại thị trường trong nước” và “Đẩy mạnh Chương trình Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Triển khai thực hiện chủ trương, chiến lược của Đảng, Nhà nước, ngành Công Thương đã tập trung hoàn thiện thể chế, ban hành và thực hiện nhiều giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phân phối, khuyến khích tiêu dùng ... để tạo thêm nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, nhà sản xuất trong nước đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, từng bước mở rộng thị trường và lớn mạnh. |
Trong giai đoạn 2011-2020, bình quân hàng năm thương mại trong nước tạo ra giá trị khoảng 14-15% GDP, doanh thu bán lẻ và dịch vụ không ngừng tăng, riêng giai đoạn 2016-2020 mức tăng bình quân ước đạt gần 9,4%/năm, gấp 1,6 lần giai đoạn 2011-2015, cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng chung của cả nền kinh tế, tạo ra nhiều hơn giá trị tăng thêm. Thương mại trong nước phát triển cũng hỗ trợ tích cực cho công tác giải quyết việc làm khi thu hút khoảng 6 - 7 triệu lao động (chiếm hơn 12% tổng lao động toàn xã hội). Đồng thời, hệ thống phân phối, dịch vụ cung ứng hàng hóa, thương mại trong nước được mở rộng đã đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng, nhờ đó đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an sinh xã hội. Như vậy, ba lĩnh vực gồm thương mại trong nước, xuất khẩu và công nghiệp chế biến, chế tạo đã tạo thành "chân kiềng" có tính bổ trợ vững chắc, bảo đảm hoàn thành mục tiêu tăng trưởng của ngành Công Thương cũng như của cả nền kinh tế đất nước. Tỷ lệ hàng Việt Nam được phân phối qua các hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại luôn chiếm tỷ trọng cao, khoảng trên 89%. Tính đến nay, tỷ lệ hàng Việt chiếm tỷ trọng trên 90% đối với hệ thống phân phối do doanh nghiệp trong nước làm chủ (Co.opmart: 90-93%, Satra: 90-95%, Vinmart: 96%...) và trên 80% tại các hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài tại Việt Nam (Lotte, Big C: 90%, AEON, Citimart: 82-85%...). |
Tại các địa phương, đô thị lớn trên cả nước đã có sự hiện diện của hệ thống các doanh nghiệp phân phối hiện đại như VinCommerce, Saigon Co.opmart; Bách Hóa Xanh; AEON, BigC... chiếm tỷ trọng khá lớn trong quy mô thị trường bán lẻ (ước tính khoảng trên 70%). Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm các quốc gia có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất toàn cầu; xếp thứ 3 trong khu vực ASEAN (sau Indonesia và Thái Lan) về quy mô bán lẻ và thương mại điện tử. Lĩnh vực thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới và trong nhóm 3 quốc gia hàng đầu của ASEAN (cùng với Indonesia và Philiphin) với hơn 50% doanh nghiệp tham gia thị trường tham gia TMĐT. Đến nay, thương mại điện tử trở thành kênh phân phối quan trọng với tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt, 27%/năm từ 5 tỷ USD năm 2016 lên 11,8 tỷ USD năm 2020, chiếm xấp xỉ 7% quy mô thị thị trường bán lẻ trong nước, cao nhất trong nhóm các nước ASEAN; năm 2021 tiếp tục tăng lên 13,7 tỷ USD và đạt 16,4 tỷ USD trong năm 2022, với mức tăng trưởng 20% trong năm 2022 thương mại điện tử tiếp tục là một trong những điểm sáng trong phát triển kinh tế số với tốc độ tăng trưởng cao (20%) năm 2022. Dự kiến con số này sẽ đạt 20,5 tỷ USD trong năm 2023, tăng khoảng 4 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2022. |
Đặc biệt, từ năm 2020 đến nay, thương mại nội địa đã thực sự trở thành trụ đỡ quan trọng trong giai đoạn đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và xuất khẩu suy giảm; một điều rất đáng chú ý là đã xuất hiện những hình thức xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ liên vùng, xuyên biên giới trên nền tảng số, đảm bảo đầu ra cho nhiều loại nông sản. Đồng thời, kịp thời cung ứng các hàng hóa nguyên, nhiên vật liệu, tiêu dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống người nông dân. Thương mại trong nước đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ và gắn liền với phát triển thương hiệu hàng Việt Nam. Cơ cấu chủ sở hữu hệ thống hạ tầng thương mại cũng có sự chuyển biến ngày càng đa dạng với sự xuất hiện của khu vực ngoài nhà nước cũng như có sự lớn mạnh vượt bậc của một số doanh nghiệp trong nước. |
Tuy nhiên, từ góc độ quản lý ngành, các chuyên gia của Bộ Công Thương cũng thẳng thắn đánh giá, tiềm năng của thương mại nội địa vẫn còn chưa được khai thác hết. Nguyên nhân do những tồn tại, hạn chế chủ yếu như sau: Trong nhiều năm, doanh nghiệp trong nước hướng mạnh về xuất khẩu do đó sản phẩm tiêu thụ nội địa không được chú trọng. Kênh phân phối truyền thống vẫn chiếm tỷ trọng cao, ảnh hưởng lớn đến vấn đề kết nối sản xuất với thị trường; ổn định và chủ động nguồn hàng, kiểm soát chất lượng, cắt giảm chi phí, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm... Lĩnh vực phân phối và bán lẻ tại Việt Nam hiện vẫn còn nhiều tiềm năng, do quy mô dân số trên 100 triệu người trong khi tỷ lệ bao phủ của hệ thống bán lẻ hiện đại chỉ đạt 25%, thấp hơn nhiều nước trong khu vực. Cụ thể, ở Philipine là 33%, Thái Lan là 34%, Malaysia 60%, Singapore là 90%... |
Việc hỗ trợ liên kết, xây dựng chuỗi cung ứng - tiêu thụ nông sản đã có những mô hình hiệu quả. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì sản xuất vẫn chủ yếu dựa trên lợi thế sẵn có, phụ thuộc vào biến động của thời tiết và nhu cầu của thị trường. Đặc biệt là do thiếu thông tin thị trường, hoặc không quan tâm đầy đủ đến thông tin thị trường nên trong những năm qua, tình trạng canh tác một số loại nông sản, trái cây theo "phong trào", không tuân thủ các yêu cầu về kiểm soát chất lượng, dẫn tới dư thừa hoặc ùn tắc tại cửa khẩu, nhiều thời điểm phải kêu gọi "giải cứu". Sự phát triển của hệ thống phân phối trong nước vẫn chủ yếu theo bề rộng, những doanh nghiệp và hệ thống phân phối đủ mạnh, có khả năng tài chính, mạng lưới kinh doanh, nhân lực, công nghệ quản lý và điều hành phù hợp với xu thế hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa chưa có nhiều. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc thỏa thuận để đưa hàng hóa vào bán tại các cơ sở phân phối của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Kết cấu hạ tầng phục vụ logistics ở nước ta được quan tâm đầu tư, nâng cấp nhưng còn thiếu tính kết nối và chưa đáp ứng được yêu cầu. Số liệu từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho thấy, chi phí logistics của Việt Nam vẫn còn cao, hiện chiếm mức 16,8% GDP, so mức bình quân thế giới là 10,7%. So sánh trong ASEAN, chi phí logistics Việt Nam cao hơn các nước Singapore, Malaysia và Thái Lan. Đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt tới khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam. Hiện nay, chỉ có rất ít doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh dịch vụ logistics lớn, cung cấp dịch vụ 3PL (cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba hay logistics theo hợp đồng), đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam và có chi nhánh hoặc đại diện ở thị trường ngoài nước. |
Đại dịch Covid-19 được khống chế nhưng đã và đang gây ra nhiều hiệu ứng tiêu cực về kinh tế xã hội; đặc biệt là thu nhập và đời sống của người lao động. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chi tiêu bình quân đầu người một tháng của cả nước năm 2022 đạt 2,7 triệu đồng (theo giá hiện hành), giảm 3,3% so với năm 2020. Sức mua bình quân của thị trường nông thôn, đặc biệt là khu vực miền núi vẫn khá thấp. Cơ sở hạ tầng thương mại phục vụ kinh tế hàng hóa một số nơi tại các vùng sâu, vùng xa vẫn còn rất hạn chế. Hạ tầng thương mại, như chợ đầu mối, kho hàng hóa (bao gồm cả kho lạnh)... cũng chưa theo kịp nhu cầu. Việc kêu gọi và thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng thương mại còn nhiều hạn chế. Chính sách ưu đãi đầu tư (thuế, đất đai, tín dụng...) để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại nói chung và ngành phân phối bán lẻ nói riêng còn nhiều bất cập. Mô hình chợ và các phương thức bán lẻ bộc lộ nhiều hạn chế so với nhu cầu thực tế nhưng chậm thay đổi do thiếu khả năng tiếp cận vốn, công nghệ. |
Từ thực tiễn được đúc kết từ cả thành công cũng như hạn chế, tồn tại giai đoạn vừa qua, có thể thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ phát triển thị trường trong nước; đặc biệt tại Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII năm 2021, đã nêu rõ: “…gắn kết hài hòa, hiệu quả thị trường trong nước và quốc tế”. Theo đó, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 - một trong những văn kiện quan trọng của Đại hội Đảng lần thứ XIII - đặt ra phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp: “Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia. Thúc đẩy phát triển thương mại trong nước theo hướng hiện đại, tăng trưởng nhanh và bền vững, gắn với nâng cao uy tín, chất lượng hàng Việt Nam chinh phục người tiêu dùng Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về chất lượng, an toàn thực phẩm; bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, người sản xuất, phân phối và người tiêu dùng.”; “cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh”; “thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực nông thôn để xây dựng liên kết theo chuỗi giá trị”; “đẩy mạnh thực hiện Chương trình “mỗi xã một sản phẩm” gắn với xây dựng thương hiệu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm”… Tiếp thu quan điểm chỉ đạo đó, từ đầu nhiệm kỳ, Bộ Công Thương đã xây dựng Chiến lược phát triển thương mại trong nước giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1163/QĐ-TTg ngày 13/7/2021. Trong đó, khẳng định vai trò của thương mại trong nước và nhấn mạnh các nhiệm vụ, giải pháp về đảm bảo tiêu thụ - đầu ra cho hàng hóa, sản phẩm thương hiệu Việt trên cơ sở phát huy nội lực, tiềm năng và dư địa phát triển của thị trường trong nước. |
Xét về tiềm năng, thị trường trong nước có đủ điều kiện, lợi thế để thực hiện các nhiệm vụ phát triển giai đoạn mới. Cụ thể là quy mô dân số trên 100 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ (60% dân số ở độ tuổi 18-50), tốc độ đô thị hóa nhanh, thu nhập bình quân đầu người ước tính sẽ đạt khoảng 7.500 - 8.000 USD vào năm 2030; tầng lớp trung lưu có xu hướng tăng nhanh và tỷ lệ tiêu dùng so với GDP cũng thuộc loại cao so với các nước trong khu vực (trên 70%)... Đặc biệt, vai trò của thị trường trong nước đã được nâng lên ở một tầm nhận thức mới ở các cấp quản lý trong hệ thống chính trị cũng như cộng đồng doanh nghiệp. Cách nghĩ coi thị trường trong nước chỉ là "giải pháp tình thế" khi gặp khó khăn về xuất khẩu đã dần được xóa bỏ. Thay vào đó, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để một mặt tạo ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị và mạng lưới sản xuất toàn cầu; và ở chiều ngược lại, hiện Việt Nam cũng đã trở thành một cánh cửa kết nối quan trọng - đầu tư vào Việt Nam đồng nghĩa với việc có thể tiếp cận được với hầu hết các thị trường lớn của thế giới. |
Phát triển thị trường trong nước lành mạnh, bền vững song hành với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được Bộ Công Thương xác định là một trong những trọng tâm chiến lược trong giai đoạn sắp tới. Đặc biệt là trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị giữa các nước lớn trong khu vực và thế giới đang có xu hướng gia tăng; những hậu quả từ biến đổi khí hậu sẽ ngày một phức tạp, khó dự đoán sẽ tác động không nhỏ tới xuất khẩu, tiêu dùng. Vì vậy, đòi hỏi các cơ quan của Chính phủ cần phối hợp chặt chẽ với ngành Công Thương chung tay nâng cao năng lực phản ứng của thị trường trong nước đối với những biến động căng thẳng, dị biệt từ bên ngoài. Trên cơ sở này, Bộ Công Thương đang tiếp tục triển khai nhiều giải pháp để tạo lập, hoàn thiện môi trường kinh doanh ổn định; đồng thời tổ chức hệ thống phân phối hiệu quả thông qua cải thiện, hiện đại hóa hệ thống hạ tầng thương mại. Từ đó hướng tới thực hiện thắng lợi 2 mục tiêu song hành theo định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước: Khơi thông, thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa Việt trên thị trường trong nước; Đồng thời hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp tục tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, tham gia, kết nối hiệu quả vào hệ thống phân phối, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. |
Thực hiện: Thái Duy – Nhật Khôi |