Xuất khẩu cá tra dự kiến đạt trên 2 tỷ USD trong năm 2018 Ngành Thủy sản khẩn trương khắc phục "thẻ vàng" của Liên minh châu Âu Ngành thủy sản: Giảm sức cạnh tranh vì phí |
Đó là chia sẻ của các doanh nghiệp tại đối thoại bàn tròn ngành thủy sản 2018 (ARD 2018) với chủ đề “Nâng cao giá trị sản phẩm thủy sản nuôi trồng của Việt Nam”, do Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) và Cơ quan Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) phối hợp tổ chức ngày 22/11 tại TP. Hồ Chí Minh.
Nói không với tạp chất trong nuôi tôm
Theo đánh giá của Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), nuôi trồng thủy sản có vị trí rất quan trọng trong ngành sản xuất nông nghiệp Việt Nam với giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân tăng đều hàng năm, tạo ra hàng triệu việc làm, góp phần ổn định và phát triển kinh tế- xã hội. Tuy nhiên, bất cập lớn nhất hiện nay của ngành này là sản xuất còn nhỏ lẻ, chưa đồng bộ, đặc biệt là tôm nên chưa đáp ứng được các điều kiện năng suất và sản lượng tập trung để thúc đẩy liên kết. Đáng nói hơn, dù Việt Nam là nước xuất khẩu thủy sản lớn trên thế giới nhưng so với các nước trong khu vực thì chi phí sản xuất trong nuôi trồng thủy sản của Việt Nam còn cao (chi phí con giống, chi phí thức ăn, thuốc vật tư…), mức độ công nghệ còn thấp trong khi yêu cầu của thị trường thì ngày càng khắt khe.
Dẫn chứng cụ thể, ông Trương Đình Hòe -Tổng thư ký VASEP -cho biết, tôm sú của Việt Nam đang đứng đầu xuất khẩu vào thị trường Mỹ, với tổng sản lượng xuất khẩu ra thế giới 300.000 tấn/năm. Tuy nhiên, từ ngày 31/12/2018, tất cả tôm nhập khẩu vào Mỹ phải tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của Chương trình Giám sát nhập khẩu thủy hải sản nhập khẩu vào Mỹ (SIMP). Chính sách mới với nhiều thủ tục, quy định đang đặt ra nhiều khó khăn, gây lúng túng cho các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu tôm của Việt Nam.
Theo ông Trương Đình Hòe, tương lai tôm Việt Nam xuất khẩu sang EU cũng chưa rõ ràng, ngay cả khi đã đạt tiêu chuẩn MRPL của thị trường này. Tại Nhật Bản, 100% lô hàng tôm Việt Nam đều bị kiểm tra thay vì chỉ 30% như thường lệ. Hàn Quốc cũng đã gửi hai bức thư tới Việt Nam cảnh báo việc dư lượng nitrofurans trong tôm.
Từ kinh nghiệm của doanh nghiệp, ông Lê Văn Quang - Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Thủy sản Minh Phú - cảnh báo, người nông dân không nên nuôi tôm có dư lượng kháng sinh và phải làm quyết liệt, đừng để đến khi Mỹ và EU cấm nhập khẩu tôm Việt Nam vì kháng sinh mới thức tỉnh.
Ông Lê Văn Quang cho biết thêm, nếu tiếp tục nuôi tôm với kháng sinh sẽ phải mất chi phí kiểm định, đẩy giá thành lên cao, trong khi nuôi tôm không sử dụng kháng sinh sẽ có giá tốt hơn. Ngoài vấn đề kháng sinh, màu sắc của tôm cũng rất quan trọng trong việc quyết định giá thành. Hiện màu sắc của tôm nuôi Việt Nam có màu hồng nhạt, kém sắc so với màu đỏ của tôm Ấn Độ và Thái Lan nên rất khó có giá cao. Về size tôm, nhu cầu của thị trường rất đa dạng, nếu như EU ưa chuộng size nhỏ từ 40-70 con/kg thì ở một số thị trường khác lại có nhu cầu size từ 60-80 con/kg. Trong khi đó, người nuôi chỉ nuôi tập trung ở mức size 50-70 con/kg và thu hoạch 01 lần, dẫn tới tình trạng “thiếu mà thừa”.
“Để kiểm soát được kháng sinh trong sản phẩm thủy sản, Minh Phú đã và đang đầu tư các phòng lab kiểm tra kháng sinh tại các vùng nuôi với chi phí đầu tư bình quân là 10 tỷ/phòng lab và chi phí kiểm tra kháng sinh cho 1 kg tôm nguyên liệu khoảng 6.000 đồng (khoảng 9.000 đồng/kg thành phẩm). Với chí phí phải đầu tư lớn như vậy đã làm tăng giá thành sản phẩm của các DN. Ngoài ra, công ty đã và đang hoàn thiện công nghệ nuôi 234 (nuôi 2 giai đoạn; thu tỉa 3 lần và 4 sạch). Quy trình này vừa mang lại hiệu quả cho người nuôi vừa cho màu sắc tôm đẹp hơn” -ông Lê Văn Quang chia sẻ.
Người nuôi tôm cần nói không với tạp chất |
Xây dựng thương hiệu bền vững cho cá tra
Với mặt hàng cá tra, năm 2018 có nhiều dấu hiệu đặc biệt đối với ngành này khi lần đầu tiên khôi phục về giá cả, đặc biệt là thị trường Mỹ.
Mặc dù vậy, giá tăng cao cũng là thách thức đối với cá tra của Việt Nam trong việc giữ vững được thị trường, để không bị đối tác thay thế loại cá khác. Ngoài ra, ngành cá tra còn gặp khó khăn trong vấn đề thiếu giống, cách nuôi không được cải thiện nhiều.
Nói về giải pháp phát triển thương hiệu, bà Trương Thị Lệ Khanh - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vĩnh Hoàn -cho rằng, doanh nghiệp cần phải khảo sát nhu cầu thị trường để nuôi cho phù hợp, nhằm giảm chi phí sản xuất. Việc khảo sát thị trường, thông tin thị trường rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan quản lý, hiệp hội doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải cạnh tranh lành mạnh - không nên phá giá lẫn nhau mà nên tập trung vào khai thác các phân khúc khách hàng riêng để giữ chân khách hàng. Đồng thời phải cùng nhau xây dựng hình ảnh cho cá tra Việt Nam khác biệt và đôc đáo.
“Về phía nhà nước tôi cho rằng cần cho cơ chế quỹ phát triển thị trường có thể vận hành để có chiến lược dài hơi trong xây dựng thương hiệu cá tra Việt Nam. Cần đưa ra một quy hoạch hợp lý trong nuôi trồng cá tra và các loại cá nước ngọt khác” - bà Trương Thị Lệ Khanh đề xuất.
Tốc độ tiêu thụ thủy sản của thế giới sẽ tăng mạnh mẽ. Dự kiến đến năm 2020, sức tiêu thụ tăng lên 98,6 triệu tấn tại các nước đang phát triển và đạt 29,2 triệu tấn tại các nước phát triển. Trong khi nguồn cung chỉ đạt 78,6 triệu tấn. Đây được xem là cơ hội lớn cho ngành nuôi trồng thủy sản của Việt Nam nếu đáp ứng được các tiêu chí về chất lượng của thị trường thế giới. |