Đền thờ vua Lê Thái Tổ tại Lai Châu |
Hàng trăm bậc đá màu đen sẫm khai thác mang về đây, không bao giờ có rêu, dẫn tôi lên một đỉnh núi nằm lọt giữa nhiều dãy núi sừng sững như những bức thành xanh trên Nậm Nhùn, xưa vốn là đất thuộc Mường Tè, một huyện lỵ nơi biên cương trấn giữ phía Tây Bắc đất nước. Mưa vẫn rơi lắc rắc lẫn từng chùm nắng le lói đan trong thảm rừng. Con đường nhỏ chìm giữa khu rừng nhiệt đới nguyên sinh, cho cảm giác một không gian u tịch, trầm mặc, thâm nghiêm. Tôi chầm chậm bước trong sự im lặng gần như tuyệt đối, để trước mắt, giữa rừng xanh, bỗng hiện ra một ngôi đền thấp, cỡ chừng nhà ba gian khá thuần Việt. Và, trước đó, chính giữa, một khối đá cao tới hơn hai mét, ngang chừng khoảng ba mét, nặng hàng chục tấn, đập vào mắt. Tôi tiến lại gần. Những dòng chữ Hán trong ánh sáng chập chờn của một sớm vừa nắng vừa mưa, dầu đã qua mấy trăm năm, dầm nắng sương, gội gió, vẫn còn rất rõ nét. Tôi bàng hoàng đưa tay sờ vào phiến đá, rờ vào những con chữ của tiền nhân. Rõ ràng trong tôi có một dòng điện chạy nhanh, bất ngờ cho cảm giác tôi đang chạm vào thời gian xa lắc. Đại Việt sử ký toàn thư đã từng kể về chuyến tuần thú của vua Lê Thái Tổ từ Thăng Long qua Hòa Bình và tới tận rẻo biên cương này.
Thơ rằng: Bọn giặc cuồng sao dám tránh đi sự trừng phạt
Dân biên thùy từ lâu mong ta tới cứu sống
Kẻ bầy tôi làm phản từ xưa vẫn có
Đất đai hiểm nguy từ nay không còn
Tiếng gió thổi hạc kêu làm quân giặc run sợ
Sông núi từ nay nhập vào bản đồ
Đề thơ khắc vào vách núi đá
Trấn giữ phía Tây nước Việt ta.
------------
Ngày lành tháng chạp năm Tân Hợi (1431)
Ngọc Hoa Động Chủ đề (1)
Ngọc Hoa Động Chủ là tên ai hay bút danh của chính vua Lê trong chuyến tuần thú kể trên mà Người khi đó, với cái tên như tự xưng với tất, Người là chúa tể ở cõi biên cương này. Đó là câu chuyện dành cho giới sử học phát ngôn. Nhưng rõ ràng, lời lẽ trong đoạn thơ trên không phải của người bình thường, cũng không phải của một bậc quan lại cao cấp. Khí thơ và lời lẽ rõ ra một người ở vị thế vương giả, vua chúa cao trọng và đầy quyền uy phát ngôn. Tôi rùng người cúi lạy phiến đá. Một cột mốc thiên nhiên giữa vùng biên ải. Cúi lạy lời của tiền nhân, đã khắc sâu, để lại như sự căn dặn cho hậu thế. Như nhắn nhủ chính tôi và anh em thủy điện cũng như bao người đang ở đây, sẽ sinh ra, đã và sẽ tới đây rằng, đừng sao nhãng cái “bọn giặc cuồng” mà phải vững tay, giữ gìn nơi ông cha đã đánh dấu, dẫu là 1 tấc đất, 1 dặm biển đã ngàn năm thuộc về non sông gấm vóc. Hỏi ra cho tường, dấu mốc này xưa tạc trên vách đá, đã bao nhiêu năm nằm giữa cánh rừng ven con sông Đà.
Không phải du khách nào cũng biết mà tới thăm viếng. Trước khi hồ Thủy điện Sơn La dâng nước, những người làm thủy điện đã chú ý tới dấu mốc văn hóa vô giá này và để bảo tồn di tích, họ là những người đầu tiên nghiên cứu đề xuất để Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu quyết định cho họ di dời và xây thêm một ngôi đền thuần Việt, để tưởng nhớ công ơn đức vua và tạo ra một không gian nghiêm cẩn, cho một di chỉ vô giá của tổ tiên. Ở hậu cung đền, có bức tượng đồng thờ đức vua Lê Thái Tổ. Bức tượng đồng nhỏ, khiêm tốn chứ không to lớn phô phang. Tượng chép lại tượng cổ vua Lê ở quần thể văn hóa Hồ Gươm, nơi kề khuôn viên Báo Nhân dân hôm nay. Khen công trình vừa đủ độ lớn khiêm tốn đứng giữa núi non bao la mà vẫn rất trang nghiêm này, Bùi Phương Nam nhẹ nhàng nói với tôi: “Chúng em làm khoa học nên sự hiểu biết về sử, về văn hóa không nhiều. Công trình nhỏ này, được như ngày hôm nay là có sự góp ý, chỉ dẫn của nhiều nhà văn hóa, mà trong đó, đặc biệt có sự giúp đỡ chu đáo của Giáo sư - ông Hoàng Đạo Kính. Riêng việc đưa khối đá nặng hàng chục tấn kia dưới thấp, kề bên dòng sông Đà, từ khâu cắt lìa nó khỏi vách núi, toàn khoan tay, tới việc đưa Ngài lên tới đây, là cả một bài toán không đơn giản”. Từ Ngài mà Nam dùng, lời của anh em thủy điện nói làm tôi giật mình. Ơ hay, khi lòng người kính trọng, đá cũng hóa tâm hồn. Đá vô tri, một khi đã gửi vào đó tư tưởng của tiền nhân, thì bản ngã đá, sự vô tri biến mất, vì hậu thế cảm rõ được tấm lòng và tư tưởng của tiền nhân để lại. Đá bỗng có bản thể, mang tâm hồn của một con người.
Đền thờ vua Lê Thái Tổ với di chỉ phiến đá có thơ đề của Ngọc Hoa Động Chủ, nay là nơi duy nhất khang trang, đậm ý nghĩa và thỏa mãn nhu cầu tâm linh, giúp cho sự đi lại thuận tiện mà thăm viếng và hương khói của nhân dân, các dân tộc tại Nậm Nhùn. Chúng tôi thắp hương. Tôi kính cẩn dưới bức tượng đồng nhỏ của vua Lê Thái Tổ trong một tâm trạng đa chiều về quá khứ và hiện tại, để lòng rưng rưng dâng lên lời cầu khẩn, ra về, có vài người dân bản địa, cả cô chủ quán Thái xinh đẹp trẻ trung mà mới tối qua luộc ngô non đãi chúng tôi. Sớm nay cô gái Thái cũng lên đây dâng hương. Cháu ơi, cháu cầu mong gì?
Ngăn dòng xây dựng thủy điện Lai Châu tháng 4/2012 |
Hóa ra, tại huyện này, người ta mới thêm có một nơi thiêng liêng hiếm hoi, xưa cả vùng núi bao la không hề có đền, lại thuận tiện hơn, thỏa mãn nhu cầu về tâm linh. Nó cũng là nơi thuận tiện hơn để thêm nhiều người đến mà nhớ tới lời dặn của tiền nhân, ở một không gian đầy kính cẩn và tôn quý. “Xưa bên phiến đá đề thơ cũng chỉ có một am rất nhỏ thôi, anh ạ”- Nam giải thích. Đó cũng là một điểm nhấn bày tỏ, rõ ra lòng kính trọng, sự cố gắng bảo tồn văn hóa vật thể và phi vật thể, trong quá trình xây dựng thủy điện với tinh thần: Không chỉ có điện cho quá trình hiện đại hóa, cho kinh tế quốc dân, mà còn liên quan tới nhiều vấn đề như an ninh - chính trị, bảo tồn văn hóa của bản địa và bao nhiêu vấn đề khác cần chú ý tháo gỡ do nhân dân và chính phủ giao cho ngành.
Nói chuyện với Giám đốc Phương ở Hà Nội về di chỉ đáng giá này, Phương khoe ngay với tôi, những anh em đi làm cùng với Ủy ban nhân dân huyện và tỉnh rất có ý thức. “Chúng em đã thu gom về rất nhiều hiện vật thuộc công cụ sản xuất, đặc trưng ở các bản điển hình nay đã chìm trong lòng hồ. Những di chỉ tôn giáo, văn hóa từng dân tộc, khi đồng bào không mang theo lúc di dân, được đồng thuận của ủy ban các cấp, thuận tình của đồng bào các bản, mường, được tập trung lại để Ban A kiến tạo, mỗi tỉnh một bảo tàng văn hóa để lưu giữ lại các hiện vật của đồng bào rất khang trang…”. Tôi hỏi lại, thế các ông mang máy bay trực thăng lên cẩu khối đá đề thơ đức vua Lê ư? “Không, đấy là những người ngoài nghề tưởng như thế. Người thủy điện giỏi di dời các vật siêu nặng lắm!”. Phương cười tự hào vang trong máy. Thì ra, cũng theo Nam Béo giải thích: Ban đầu, định đặt đền trên một ngọn núi khác, công việc dễ hơn bởi đoạn đường di dời gần hơn. Nhưng lại không thuận tiện cho nhân dân các dân tộc trong vùng tới thăm viếng đền. Chúng em khảo sát kỹ, đã chọn ngọn núi sát đường mới mở, nơi anh em ta đã tới. Mở một con đường ngoằn ngoèo đằng sau núi. Tính toán thế nào, con đường mở ra sao, ít phải hạ cây đại thụ lâu năm đi. Công việc khó khăn hơn. Lại tời, kéo đá đặt lên xe lớn, bò trên con đường vòng ra sau đền ấy mà lên núi, không ai biết được. Ngay cả phiến đá khổng lồ có sẵn trước bậc đầu tiên vào đền, cũng được tính toán giữ lại. Giữ là giữ cho cảnh sắc thật tự nhiên.
Nghe chuyện mà tôi thầm khâm phục những người thủy điện, làm khoa học mà đã thận trọng nghiên cứu văn hóa và môi trường cẩn trọng, sâu sắc thế. Ôi, tôi chợt nhớ tới sườn núi tả ngạn đập. Sườn núi dễ sạt được phun xi măng thật khéo để giữ nguyên vẻ sù xì của thiên nhiên. Các phiến đá tựa như sườn núi tự nhiên bên phải, ngay sát vai phải đập chứ không xây tường đặc bê tông kè núi. Tôi nhớ tới cảnh dưới mưa và nắng cuối năm 2015, anh em Ban A đã dọn dẹp tất cả mặt bằng bề bộn vật liệu còn lại từ khi mới bước đầu xây dựng. Họ làm sạch hàng trăm héc-ta quanh khu công trường. Trồng lại cây, trả lại rừng xung quanh công trình Thủy điện Lai Châu. Năm tháng trời trôi qua, sau ngày ấy, giờ tôi thăm lại. Hôm nay, cả rừng cây chạy ngang, dọc ấy đang trổ lá non xanh. Anh hùng Thái Phụng Nê cũng trồng một cây bồ đề lưu niệm trong cánh rừng này.
Tôi cũng lần mò tới xã Mường Mô khi họ giã từ cái bản xưa nhỏ nhoi nhiều nhà cũ nát, lên cao thành lập xã nhỏ, nhiều nhà mới cất. Lại bên ngay cạnh con đường mới làm. Để tôi bước sải chân thong thả dạo thăm mảnh đất mới bắt đầu nơi sinh cư mới, chở che cho 686 hộ dân ba sắc tộc. Nghe chị Hoàng Thị Sơn, một phụ nữ nghèo trong bản mới, đã 55 tuổi, khen ngợi: Chính phủ đã cho cái nhà mới, bản mới hiện đại lắm. Tốt hơn bản cũ và vui. Cũng nghe chị Sơn không úp mở, thẳng tuột phê bình, than thở với Bí thư Đảng ủy xã Lù Thị Sen, ngay trước mặt nhà văn ở trung ương lên, về những gì chị chưa hài lòng, ngay cạnh con đường nhỏ leo lên Cái nhà Hươn Méo, nơi linh thiêng của người Thái vừa đã được chuyển cùng về bản mới. Tôi đã lắng nghe cả những giấc mơ của người dân nơi đây vẫn mơ về bản cũ. Nơi ngàn năm ông cha họ xưa ở đó. Những người dân tộc thuận tình về đây, tái định cư tập trung, tái định cư cá thể đều tự nguyện. Đó là cả một quá trình kiên nhẫn và đặc biệt là sự bao dung của nhân dân các sắc tộc. Sự thông cảm sẻ chia để hy sinh cả nơi gốc tích của họ, trước chủ trương nhà nước, trước quyền lợi của cả cộng đồng dân số đông đúc trăm triệu, lớn hơn cộng đồng của họ, thực sự làm tôi cảm động. Cảm động khi người đàn bà dân tộc Thái, gầy mỏng như lá lúa kia, nói chân thật: “Về đây đông người thì vui. Gần cả bến xe khách, nhưng em không đi đâu cả. Ruộng thì ít hơn bản cũ, nhưng em vẫn đồng ý vì cán bộ nói, để cái thủy điện làm điện nhiều cho cả nước mình cùng giàu. Ừ, mà nhà nước làm thêm cái trường to, cái nhà chữa bệnh cho dân ngay trong bản, cũng làm cho ai ai cũng vui”.
Những người thủy điện đã làm nhiều điều kỳ diệu, hết lòng cho công việc, cũng là cho nhân dân khi họ di dân. Hơn ai hết, họ cũng chia sẻ rất nhiều để “nước thương yêu cá” hơn. Vũ Đức Lực kể cho tôi một câu chuyện lãng mạn có thể phát triển thành một truyện ngắn. Đó là vào năm 2004, khi còn làm ở phòng kỹ thuật, Lực được giao nhiệm vụ theo dõi công tác cắm mốc viền hồ, làm cơ sở cho công tác di dân. Đoàn kỹ sư lên từ khi chưa có một cơ sở vật chất nào của Ban A. Lực kể tiếp:
- Chúng em, cả đoàn ở nhờ trong một gia đình thày giáo người Thái ở Chăn Nưa. Sớm tinh mơ, trời còn tối đen đã lên đường, cho tới tận tối mịt mới về nhà ngả lưng. Nhiều hôm, khi đoàn về, cả nhà đã đi ngủ hết. Hàng tháng trời như thế, ít có điều kiện trò chuyện với các thành viên trong gia đình chủ nhà, tuy vậy, cũng có đôi khi gặp được cô con gái lớn của chủ nhà cùng ra bưu điện xã gọi điện vào buổi tối. Biết em là cô giáo và chỉ kịp cười cười chào nhau bẽn lẽn. Công việc hoàn thành, ngày cả tổ rời đi, ngồi với chủ nhà, chén rượu chia tay. Chủ nhà ít nói lắm, đêm ấy mới cất lời: “Nước mình ai cũng làm việc như các chú thì giàu to rồi.” Thời gian trôi qua, khi chuyển lên làm Thủy điện Lai Châu, vài lần em qua Chăn Nưa, vào tìm lại nhà nhà trọ năm xưa, nhưng cả nhà đã di chuyển đi Phong Thổ, theo chương trình di dân lòng hồ, tưởng không còn gặp lại. Cho đến năm 2014, khi họp tổng kết phong trào thi đua liên kết tại Nậm Nhùn, ngồi cạnh một cô gái xinh xắn, cán bộ của Liên đoàn Lao động tỉnh Lai Châu, em mới hỏi làm quen: “Em quê ở đâu?”. “Em ở Chăn Nưa”. “Thế ở Chăn Nưa em có biết thày giáo Uyển không?” Cô gái xinh tươi quay hẳn lại, mắt đen thẳm ngạc nhiên. Chắc cô thoáng nhận ra điều gì: “Đấy là bố em!” Ồ, thì ra trái đất tròn, anh chính là người 10 năm trước đây đã ở nhờ nhà em đấy… Cô giáo trẻ giờ đây đã rất trưởng thành, ngờ ngợ nhận ra khách cũ, mà theo thời gian Lực cũng chẳng nhớ nổi khuôn mặt xinh đẹp còn như hoa rừng ấy nữa. Cô khoe bố cô vẫn nhắc tới, vẫn thương đoàn Thủy điện chăm chỉ năm ấy. Mà nhà nghèo chưa giúp được gì, ngoài cái cho ở nhờ, từ chối hết, chẳng lấy gì của họ. Về bản chất, “con dân” là nước đấy. Khi họ đã tin, yêu và giữ được lòng yêu thương của họ, thì dân bao giờ cũng dám hy sinh và không bao giờ quên điều gì tốt đẹp, dù đã chỉ một lần gây ấn tượng trong họ. Có lẽ thấu hiểu điều đơn giản ấy, mà anh em thủy điện đã làm bao nhiêu việc hết lòng, không tắc trách cho xong, khắc phục bao vấn đề khi lòng hồ nước dâng lên không? Việc xây đền thờ đức vua Lê, lưu tồn phiến đá khắc cốt ghi xương, đánh dấu cương vực tổ tiên, là việc tâm linh; cũng là việc cho bao người người đang sống, các dân tộc khác nhau có nơi mà phụng thờ; cũng như bao việc tử tế cho người dân các sắc tộc đang sống, người sống được ổn định trong một vùng sống mới, thực ý nghĩa cảm động sâu xa làm sao!
(1)Bài thơ này được Viện Hán Nôm dịch nghĩa.
(Còn nữa)
TIN LIÊN QUAN | |