“5 không” cho doanh nghiệp Việt khi kinh doanh tại EU
Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA) không chỉ mở ra cơ hội giúp Việt Nam trở thành “mắt xích” quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu, mà còn tạo ra cơ hội kinh doanh tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường EU.
Tuy nhiên, việc kinh doanh tại thị trường EU cần tuân thủ chặt chẽ hệ thống pháp luật EU (trong đó bao gồm pháp luật cạnh tranh). Vi phạm pháp luật cạnh tranh tại EU làm cho doanh nghiệp đối mặt với rủi ro pháp lý, cũng như các thiệt hại về tài chính để theo đuổi vụ việc nếu vụ việc bị điều tra và xét xử tại. Ngược lại, khi doanh nghiệp là đối tượng chịu sự tác động của hành vi vi phạm, quyền và lợi ích của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Việc nắm rõ các quy định về pháp luật cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình.
Nhằm giúp doanh nghiệp Việt đang và sẽ đầu tư vào EU tránh được những thua thiệt không đáng có, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng đã đưa ra một loạt khuyến nghị cho doanh nghiệp Việt khi kinh doanh tại thị trường này.
Thứ nhất, là xây dựng các quy tắc khi trao đổi thông tin với đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp yêu cầu nhân viên các cấp không được phép trao đổi với đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp những nội dung như: Các thông tin liên quan đến việc bán hàng tại thị trường EU (hỏi đối thủ cạnh tranh có tham gia vào cuộc đấu thầu cụ thể nào đó hay không; giá của một mặt hàng nhất định, chiết khấu hoặc các nội dung khác liên quan đến giá sản phẩm mà doanh nghiệp đang kinh doanh tại EU…).
Hay, trao đổi với các đối thủ cạnh tranh về mặt hàng mà doanh nghiệp đang kinh doanh tại EU (ví dụ như lượng hàng tồn kho tại thị trường EU; chi phí sản xuất; nguồn lực hoặc quy trình sản xuất sản phẩm…). Ngoài ra, doanh nghiệp Việt cũng không được phép trao đổi với các đối thủ cạnh tranh về các thông tin, kế hoạch tương lai của doanh nghiệp. Như: Các kế hoạch đầu tư nguồn vốn; kế hoạch về sản phẩm mới, chuẩn bị gia nhập vào thị trường EU của doanh nghiệp; hoặc trao đổi và đưa ra các thỏa thuận với đối thủ cạnh tranh liên quan đến việc kinh doanh của doanh nghiệp khác (ví dụ như cùng thỏa thuận không nhập nguyên liệu từ một nhà cung cấp nhất định tại thị trường EU)…
Việc nắm rõ các quy định về pháp luật cạnh tranh sẽ giúp doanh nghiệp bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của mình (Ảnh minh hoạ) |
Thứ hai, luôn cảnh giác khi tham gia vào Hiệp hội thương mại. Hiệp hội thương mại là một trong những kênh thông tin giúp doanh nghiệp nắm bắt thị trường. Tuy nhiên, các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thông thường ẩn nấp dưới các hoạt động của hiệp hội. Do vậy, doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các hiệp hội tại thị trường EU cần cảnh giác và rà soát chặt chẽ hoạt động của hiệp hội. Từ đó, giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro từ việc vô tình thực hiện hành vi vi phạm.
Theo đó, doanh nghiệp Việt không được thực hiện các hành vi như: Trao đổi bất kỳ thông tin liên quan đến giá, sản lượng trong các buổi họp với hiệp hội hoặc các buổi gặp mặt giao lưu giữa các thành viên trong hiệp hội. Hay, tham gia vào bất kỳ các cuộc khảo sát nhằm tìm hiểu ý kiến thành viên có nên loại bỏ bất kỳ doanh nghiệp nào ra khỏi ngành công nghiệp mà doanh nghiệp đang sản xuất, kinh doanh tại thị trường EU…
“Khi tham gia vào các cuộc họp giữa các thành viên của hiệp hội (do hiệp hội tổ chức hoặc do một trong các thành viên của hiệp hội tổ chức), nếu doanh nghiệp nhận thấy các thành viên khác đang trao đổi, thảo luận về các nội dung liên quan tới giá, sản lượng,… thì nhân viên doanh nghiệp cần rời cuộc họp ngay lập tức”- Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng khuyến nghị.
Thứ ba, doanh nghiệp Việt cần xây dựng các quy tắc khi liên lạc với khách hàng và nhà cung cấp sản phẩm. Trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các đối tác khách hàng (nhà phân phối) hoặc các nhà cung cấp nguyên vật liệu, doanh nghiệp không nên thực hiện những hành vi như: Ép buộc nhà phân phối phải tuân theo mức giá nhất định.
Trao đổi với các doanh nghiệp ở các khâu đoạn khác nhau (nhà cung cấp hoặc nhà phân phối) về việc không được giao dịch với một khách hàng cụ thể nào đó. Ví dụ, doanh nghiệp Việt Nam yêu cầu nhà phân phối X tại thủ đô Paris của Pháp không được bán cho khách hàng từ Lyon và ngược lại. “Những hành vi này có thể vi phạm pháp luật cạnh tranh nếu như cơ quan cạnh tranh chứng minh được tác động hạn chế cạnh tranh đáng kể tới thị trường EU” - đại diện Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng cho biết.
Thứ tư, cần rà soát hợp đồng ký kết giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp phân phối hoặc doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu tại thị trường EU. Đối với doanh nghiệp Việt Nam có vị trí thống lĩnh trên một thị trường liên quan nhất định tại EU, doanh nghiệp không được thực hiện những hành vi nếu hành vi đó gây tổn hại tới cạnh tranh. Như, áp đặt mức giá cao bất hợp lý trên thị trường; áp đặt các mức giá khác biệt với người mua một cách bất hợp lý; hạn chế sản lượng.
Do đó, doanh nghiệp cần rà soát hợp đồng giữa doanh nghiệp và các doanh nghiệp phân phối hoặc doanh nghiệp cung ứng nguyên vật liệu tại thị trường EU nhằm loại bỏ các điều khoản có dấu hiệu vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Thứ năm, Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng lưu ý các doanh nghiệp vấn đề tham gia Chương trình khoan hồng nếu thực hiện hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Trong trường hợp doanh nghiệp cho rằng đã vô tình tham gia vào hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh tại thị trường EU thì nên khai báo và tham gia Chương trình khoan hồng theo pháp luật cạnh tranh EU để hưởng miễn trừ tiền phạt.
Luật Cạnh tranh EU bao gồm 4 nội dung chính: (i) cartel hay thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; (ii) lạm dụng vị trí thống lĩnh, độc quyền; (iii) kiểm soát tập trung kinh tế; (iv) các biện pháp hỗ trợ của chính phủ các nước thành viên. Các quy định liên quan đến cartel, độc quyền và biện pháp hỗ trợ của Chính phủ được quy định tại Hiệp ước về các chức năng của EU (Hiệp ước TFEU). Trong khi đó, các quy định liên quan đến kiểm soát tập trung kinh tế được quy định tại các chỉ thị do Hội đồng ban hành. |