Ảnh minh họa: internet
CôngThương - Trong năm 2010, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc 7,3 tỷ USD, tăng 49% và nhập khẩu ngược lại là 20,02 tỷ USD, tăng 21,8%. Buôn bán với Trung Quốc chiếm 14,07% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong khi Việt Nam chỉ chiếm 0,78% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc.
Năm 2001, Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc trên 200 triệu USD. Năm 2010, con số nhập siêu này là 12,7 tỷ USD.
Số liệu chính thức từ Bộ Công Thương cho thấy nhập siêu bốn tháng đầu năm 2011 đã đạt mức 4,89 tỷ USD, riêng nhập siêu từ Trung Quốc đã tới gần 4 tỷ USD.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam đã trao đổi với ông Đào Ngọc Chương, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Á- Thái Bình Dương, Bộ Công Thương về những điểm tích cực trong quan hệ buôn bán với thị trường này.
- Thưa ông, thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc là một trong những giải pháp trọng yếu để thu hẹp chênh lệch cán cân thương mại hai nước. Ông có đánh giá thế nào về sự chuyển biến trong nỗ lực này?
Ông Đào Ngọc Chương: Sau 1 thời gian dài, quan hệ hợp tác thương mại của hai nước Việt Nam- Trung Quốc đã phát triển mạnh và dần dần, doanh nghiệp hai nước đã nhận thấy những tiềm năng hợp tác phát triển để bổ sung cho nhau.
Với Việt Nam, hướng phát triển thị trường Trung Quốc trong thời gian tới là rất rõ. Điểm thứ nhất là các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được thị trường Trung Quốc có tính bổ sung rất lớn, khai thác thị trường này có rất nhiều khả năng.
Điểm thứ hai là, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thấy rằng đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc dễ hơn so với một số thị trường khác. Thứ ba, hội nhập khu vực và sự quan tâm của Chính phủ hai bên đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Việt Nam có thể đẩy mạnh hơn việc xuất khẩu hàng hóa sang nước này.
Từ năm 2007 đến nay, mức tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc thường cao hơn tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu. Mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đã bắt đầu khai thác tốt tiềm năng, lợi thế mà Việt Nam có, nhưng Trung Quốc không có. Những mặt hàng nào thuộc điều kiện nhiệt đới, chúng ta sản xuất phát triển được thì ta đều xuất mạnh sang Trung Quốc.
- Trước đây, chúng ta vẫn xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu là theo con đường biên mậu, hàng hóa có giá trị gia tăng không cao, khó đạt được giá trị kim ngạch mang lớn. Trong khi, ta thường nhập khẩu mặt hàng giá trị lớn từ Trung Quốc. Vậy, đến nay, chúng ta đã có chuyển biến gì về cơ cấu xuất khẩu này?
Ông Đào Ngọc Chương: Có thể nói, thay đổi lớn nhất trong giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc ngày hôm nay là đã có sự chuyển biến từ buôn bán biên mậu sang buôn bán chính ngạch.
Có thể chia làm 2 giai đoạn, từ năm 1991- 1997, là chủ yếu ta buôn bán với nước bạn là qua biên giới nhưng từ năm 1997 đến nay, con đường chính ngạch đã áp đảo và ngày càng giữ vị trí chủ đạo trong quan hệ thương mại hai nước.
Năm 2010, buôn bán biên giới giữa Việt Nam- Trung Quốc chưa đến 10 tỷ USD trong khi kim ngạch hai nước là gần 30 tỷ. Rõ ràng, chính ngạch là chủ yếu.
Bên cạnh đó, tư duy làm ăn của doanh nghiệp Việt Nam với thị trường Trung Quốc cũng đã thay đổi, trước đây, doanh nghiệp của ta nặng về hình thức chỉ đưa hàng tới biên giới, bán nhỏ lẻ thì giờ, bắt đầu đã có đầu tư, có chế biến, có qui hoạch, có chất lượng. Đó là điều phát triển nổi bật trong thời gian vừa qua.
- Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, phía Trung Quốc không muốn đẩy mạnh con đường chính ngạch khi giao thương với Việt Nam mà thường, chính sách của nước bạn là khuyến khích biên mậu hơn. Việc này đã khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn đẩy hàng vào sâu nội địa Trung Quốc. Ông có ý kiến gì về điều này?
Ông Đào Ngọc Chương: Nếu nói đó là chính sách của nước bạn, tôi nghĩ là không hoàn toàn như vậy. Đối với Trung Quốc, thực ra, tỷ trọng hàng Việt Nam trong tổng kim ngạch ngoại thương của nước bạn là không đáng kể, chỉ chiếm 0,78%. Trong khi đó, buôn bán với Trung Quốc chiếm 14,7% trong tổng kim ngạch ngoại thương của ta.
Trong chuyện này, phía Trung Quốc mong muốn ta ổn định trong vấn đề xuất khẩu.
Thứ hai là, khi hai nước thực thi các cam kết trong khu vực tự do mậu dịch ASEAN và Trung Quốc thì các ưu đãi trong buôn bán biên giới sẽ phải giảm. Rõ ràng, người Trung Quốc đều muốn làm ăn với ta bằng chính ngạch.
- Thưa ông, nhiều năm qua, tỷ lệ nhập siêu của ta từ Trung Quốc rất lớn. Các nỗ lực xuất khẩu của ta vẫn chưa rút ngắn khoảng này, ông có ý kiến thế nào?
Quan hệ thương mại Việt Nam- Trung Quốc đã cải thiện đáng kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991. Kim ngạch mậu dịch song phương tăng từ 37,7 triệu USD năm 1991 lên 27 tỷ USD năm 2010, gấp 710 lần. Giai đoạn 2006-2010, Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc tăng bình quân 16,5%/năm, Trung Quốc trở thành bạn hàng xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam, sau Hoa Kỳ, Nhật Bản. Trong đó, hàng Việt Nam xuất sang Trung Quốc có 55% là hàng nhiên nguyên liệu, 15% là hàng nông, lâm thủy hải sản, 10% là hàng công nghiệp. Đồng thời, Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với tốc độ tăng bình quân là 32%/năm, chủ yếu là nhiên nguyên vật liệu, phụ tùng máy móc. |
Ông Đào Ngọc Chương: Nếu nhìn vào thực trạng nhập siêu từ Trung Quốc để biết là tích cực hay tiêu cực, khách quan thì phải nhìn vào cơ cấu. Trong những gì ta nhập ở Trung Quốc, xem laptop, điện thoại di động là bao nhiêu. Hay chủ yếu là vật tư, nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp, phục vụ sản xuất trong nước, chế biến xuất khẩu?
Trong 20,03 tỷ USD ta nhập từ Trung Quốc năm 2010, tỷ lệ điện thoại di động, laptop, hay hàng tiêu dùng xa xỉ nói chung là không đáng kể. Nhưng nếu như, tỷ lệ nhập khẩu hàng Trung Quốc phần lớn lại là điện thoại, laptop... thì cơ cấu đó là không tích cực.
Chúng ta phải xem nhóm hàng nhập thì thấy, nhóm chính đều là gang thép, nguyên liệu đầu vào gia công dệt may, phân bón, thuốc trừ sâu... , chiếm 12-13 tỷ USD, là những thứ cần thiết. Tôi cho rằng, phải nhìn vào cơ cấu mới đánh giá nhập siêu từ Trung Quốc khách quan được, từ đó, mới giúp doanh nghiệp có hướng giảm nhập siêu.
- Tuy nhiên, do hàng hóa, thiết bị Trung Quốc vào Việt Nam có nhiều vấn đề. Có ý kiến cho rằng, thà Việt Nam chấp nhận nhập siêu từ nước có công nghệ cao, chất lượng hàng tốt hơn là nhập siêu từ Trung Quốc?
Ông Đào Ngọc Chương: Việt Nam đã hội nhập, trong đó, người quyết định việc nhập khẩu, xuất khẩu theo qui định chung chính là doanh nghiệp. Việc nhập khẩu ấy phụ thuộc vào đối tượng người tiêu dùng. Doanh nghiệp căn cứ vào đó và tính toán bài toán lợi nhuận để quyết định nhập hàng. Còn tiêu chuẩn nhập khẩu là do thỏa thuận của 2 bên. Trách nhiệm làm sao hàng hóa đảm bảo tiêu chuẩn trên thị trường còn có cơ quan quản lý Nhà nước phải lo.