Quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã hỗ trợ cho hơn 13 triệu lao động Lợi dụng quy định lỏng lẻo, trục lợi bảo hiểm thất nghiệp gia tăng |
13 hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội Da giày túi xách Việt Nam, Hiệp hội Bia rượu nước giải khát Việt Nam, Hiệp hội Sữa Việt Nam, Hiệp hội Thực phẩm minh bạch, Hiệp hội Các doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, Hiệp hội Gỗ và lâm sản Việt Nam; Hiệp hội Nhựa Việt Nam, Hiệp hội Chè Việt Nam, Hiệp hội Các nhà sản xuất xe máy Việt Nam, Hội Lương thực thực phẩm TP.Hồ Chí Minh, Hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ TP.Hồ Chí Minh mới đây đã ký văn bản góp ý dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi.
Ảnh: TTXVN |
Trong văn bản góp ý Dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi, 13 hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng nêu vấn đề, quy định tỷ lệ đóng bảo hiểm bắt buộc gồm bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động và người sử dụng lao động có hợp đồng lao động vẫn giữ như Luật Bảo hiểm xã hội 2014. Cụ thể, người lao động đóng 10,5% (8% bảo hiểm xã hội, 1,5% bảo hiểm y tế và 1% bảo hiểm thất nghiệp) và người sử dụng lao động đóng 21,5% (17,5 bảo hiểm xã hội, 3% bảo hiểm y tế 2 và 1% bảo hiểm thất nghiệp). Tính chung tỷ lệ đóng của cả người lao động và người sử dụng lao động là 32%.
Theo phân tích của các hiệp hội, tổng mức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội của cả người lao động và người sử dụng lao động dựa trên tỷ lệ đóng (từ 23% năm 2007, 25% năm 2009 do đóng thêm 1% bảo hiểm thất nghiệp và từ năm 2017 đến nay tăng lên 32% năm) và mức lương tối thiểu vùng (tăng hàng năm từ năm 2007 đến năm 2022, trừ năm 2021 không tăng do Covid-19), mức đóng năm 2022 đã cao hơn gần 10 lần so với năm 2007.
13 Hiệp hội cho rằng, so với khu vực và thế giới, tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội của người sử dụng lao động ở Việt Nam đang cao hơn nhiều nước như Malaysia, Ấn Độ, Indonesia, Campuchia, Thái Lan, Myanma, Bangladesh... Riêng tại Thái Lan, nguồn quỹ bảo hiểm xã hội không chỉ từ người lao động và người sử dụng lao động mà Chính phủ cũng đóng góp thêm. Vì vậy, các hiệp hội kiến nghị, nên đưa tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động và người sử dụng lao động về mức như năm 2009, tức là người lao động đóng 5% và người sử dụng lao động đóng 15%, tổng cộng 20%.
Còn với tỷ lệ đóng bảo hiểm thất nghiệp, các hiệp hội cho rằng, hiện tại Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp đã kết dư quá nhiều, trong khi mục đích của quỹ nhằm đảm bảo an sinh xã hội cho người lao động vì thế, khi quỹ đã kết dư quá nhiều thì cần giảm mức đóng để điều chỉnh quỹ về mức cân bằng. Do vậy, các hiệp hội đề xuất giảm tỷ lệ đóng vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp của người lao động còn 0,5%, của người sử dụng lao động còn 0,5% và có lộ trình giảm tiếp cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Đối với tỷ lệ đóng vào Quỹ Bảo hiểm y tế, người lao động đóng 1% và người sử dụng lao động đóng 2%. Như vậy, tỷ lệ đóng của người lao động sẽ là 6,5% cho các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; người sử dụng lao động đóng 17,5% (mỗi bên giảm 4% so với hiện nay).
Cũng trong góp đối với Dự thảo Luật Bảo hiểm Xã hội sửa đổi, theo các hiệp hội Việt Nam cần xem xét tổng thể việc quản lý một cách hiệu quả Quỹ Bảo hiểm xã hội cũng như cách tính trượt giá nói riêng để giảm tỷ lệ đóng bảo hiểm xã hội nhưng vẫn đảm bảo lương hưu thực tế của người lao động đáp ứng được nhu cầu chi tiêu cho cuộc sống.
Liên quan đến tuổi nghỉ hưu và mức hưởng lương hưu, theo quy định hiện hành, đến năm 2035, nam đủ 62 tuổi và nữ đủ 60 tuổi mới đủ tuổi nghỉ hưu. Người lao động được nghỉ hưu sớm tối đa 5 tuổi thấp hơn so với tuổi nghỉ hưu khi bị suy giảm khả năng lao động từ 61% đến dưới 81%. Đối với đối tượng đủ điều kiện nghỉ hưu sớm, cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi sẽ bị trừ 2%.
Cho ý kiến về quy định này, các hiệp hội nhấn mạnh, những quy định này không phù hợp với thực tiễn người lao động Việt Nam. Trên thực tế, có rất nhiều người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sớm, đến 50-55 tuổi sức khỏe đã giảm sút, không đủ khả năng đáp ứng nhu cầu công việc, thậm chí rất khó tìm được việc làm và đã có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 20 năm, thậm chí 30 năm. Như vậy, cả về thời gian và số tiền đóng cho bảo hiểm xã hội là đã đủ lớn. Nếu chờ đợi đến đủ tuổi nghỉ hưu, người lao động sẽ gặp khó khăn trong việc đảm bảo chi tiêu cuộc sống.
Cũng theo quy định hiện nay, đối tượng có số thời gian đóng bảo hiểm thấp hơn số năm tương ứng với tỷ lệ hưởng hưu 75%, mỗi năm không đóng bảo hiểm xã hội sẽ bị trừ 2%. Các hiệp hội cho rằng mức trừ này quá cao so với mức hưởng trợ cấp một lần khi nghỉ hưu đối với đối tượng có thời gian đóng cao hơn số năm tương ứng tỷ lệ 75% (cứ mỗi năm đóng bảo hiểm xã hội, chỉ được tính bằng 0,5 tháng của mức bình quân tiền lương làm căn cứ đóng). Kể cả trường hợp người lao động đủ điều kiện nghỉ hưu sớm (đóng Bảo hiểm Xã hội từ đủ 30 năm), mỗi năm nghỉ hưu sớm bị trừ tương ứng 2% cũng không hợp lý.
Theo đó, các hiệp hội đề xuất, trong trường hợp người lao động đủ tuổi nghỉ hưu sớm theo quy định và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên 20 năm, được quyền về hưu và mỗi năm về hưu sớm sẽ bị trừ đi một tháng lương hoặc cao nhất bị trừ không quá 1% tương ứng với 1 năm như Luật Bảo hiểm xã hội 2006. Với người lao động đủ tuổi nghỉ hưu sớm theo quy định và có thời gian đóng bảo hiểm xã hội đủ 30 năm đối với nữ và 32 năm đối với nam sẽ được về hưu ngay và hưởng hưu tối đa là 75%.