Hoạt động của VPĐD và CNNN ở Việt Nam: Những vấn đề đặt ra
Nhiều DN nước ngoài tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam thông qua các cuộc hội thảo
- Việc thành lập và tổ chức hoạt động của VPĐD-CNNN tại một nước khác là một trong những phương thức tiếp cận thị trường truyền thống của các tập đoàn, các công ty lớn có thương hiệu trên thế giới.
Đóng góp cho tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam
Ở Việt Nam, đầu những năm 1990 đã xuất hiện VPĐD-CNNN của các hãng lớn như: Johs. Rieckerman chuyên cung cấp thiết bị cho ngành in, Maersk Logistics chuyên vận tải quốc tế và dịch vụ hậu cần, Văn phòng đại diện JICA (Nhật), hãng ô tô Mercedes-Benz... Với những hoạt động nghiên cứu, thăm dò thị trường, xúc tiến bán hàng, tìm kiếm cơ hội đầu tư, các VPĐD-CNNN đã gặt hái nhiều thành công ở Việt Nam, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam. Trong lĩnh vực xuất khẩu (XK), kim ngạch XK và gia công thông qua văn phòng đại diện năm 2010 đạt 17/2% trong tổng kim ngạch XK của cả nước là 71,6 tỷ USD.
Hiện nay, ở Việt Nam, việc thành lập và hoạt động của VPĐD-CN của thương nhân nước ngoài tuân thủ theo quy định tại Nghị định 72/NĐ-CP ngày 25/7/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về VPĐD-CN của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Theo số liệu thống kê của các Sở Công Thương, hiện ở TP. Hồ Chí Minh có 2.378 VPĐD-CN, ở Hà Nội là 1.495, còn ở Quảng Ninh là 7.
Các văn phòng đến từ các nước, vùng lãnh thổ như: Singapore, Hồng Kông, Nhật, Hoa Kỳ, EU có nhiều đóng góp cho tăng trưởng XK của nước ta. Ngoài ra, cũng chính các văn phòng này giúp các doanh nghiệp (DN), các nhà đầu tư trong nước NK thiết bị, công nghệ, vật tư nguyên liệu phục vụ cho đầu tư, sản xuất. Đáng lưu ý, các dự án đầu tư, các công trình xây dựng do công ty mẹ trúng thầu ở Việt Nam đã được các VPĐD thúc đẩy, giám sát thực hiện một cách có hiệu quả.
Ngoài ra, VPĐD của thương nhân nước ngoài còn góp phần giải quyết lao động, đào tạo lao động có tay nghề cao, riêng ở TP. Hồ Chí Minh đã giải quyết được 10.600 việc làm cho người lao động, Hà Nội là 3.500 lao động. Các VPĐD-CNNN còn chuyển giao công nghệ về quản lý, điều hành hoạt động của DN. Tại Hà Nội, tính đến năm 2010, các VPĐD nộp thuế thu nhập cao cho ngân sách, trung bình 10 - 11 tỷ đồng/tháng. Ở TP. Hồ Chí Minh con số này là 951,9 tỷ đồng, mua sắm trang thiết bị hàng năm khoảng 40 triệu USD...
Hoạt động của VPĐD-CN thương nhân nước ngoài trong thời gian qua về cơ bản thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật Việt Nam, đặc biệt là các công ty, các tập đoàn lớn có thương hiệu đến từ các nước Hoa Kỳ, Nhật, EU; tuân thủ pháp luật, thực hiện tốt vai trò xúc tiến thương mại, thúc đẩy việc thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa, các dự án đầu tư cho công ty mẹ ở nước ngoài.
Tuy nhiên, qua công tác kiểm tra của cơ quan chức năng, một số VPĐD còn có các vi phạm như: Hoạt động sai mục đích, không nộp báo cáo hoạt động thường kỳ, không điều chỉnh hoặc chậm không điều chỉnh giấy phép khi có thay đổi về nhân sự, trụ sở. Một số VPĐD còn không đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động mà chỉ trả lương thuần túy, không nộp thuế thu nhập cá nhân hoặc khai gian thuế thu nhập cá nhân.
Ví dụ, tại TP. Hồ Chí Minh, một VPĐD của Trung Quốc đăng ký lĩnh vực kinh doanh thiết bị nội thất nhưng lại hoạt động tư vấn dịch vụ khám chữa bệnh... Thậm chí, có VPĐD-CNNN của Hoa Kỳ chưa có giấy phép hoạt động lại sử dụng con dấu vuông tự chế để ký kết đến 70 hợp đồng với DN trong nước.
Vẫn còn vướng mắc
Phạm vi điều chỉnh của Nghị định 72/NĐ-CP là các hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của VPĐD-CN. Còn các hoạt động thương mại đặc thù như ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dịch vụ pháp lý, văn hóa, giáo dục, du lịch hoặc các lĩnh vực nào, thì thực hiện theo quy định của pháp luật của lĩnh vực đó. Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều loại hình hoạt động khác của thương nhân nước ngoài như dịch vụ y tế, xây dựng, hỗ trợ khẩn cấp (trong các trường hợp đi công tác hoặc du lịch ở nước ngoài)... chưa có quy có cụ thể trong bất kỳ một văn bản pháp luật nào, nên thương nhân nước ngoài không biết liên hệ với ai để xin cấp phép thành lập.
Vấn đề này rất cần được xem xét trong quá trình bổ sung sửa đổi Nghị định 72/NĐ-CP. Nên chăng, phạm vi điều chỉnh của Nghị định là hoạt động thương mại (bao gồm cả mua bán hàng hóa và thương mại dịch vụ) của VPĐD-CN của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam. Điều này hoàn toàn có cơ sở pháp lý và phù hợp với thực tế quản lý hiện nay ở nước ta, bởi các lý do sau: Thứ nhất, khái niệm “thương mại đặc thù” quy định trong điều 2.4 của Nghị định 72/NĐ-CP thực chất là các loại hình của thương mại dịch vụ theo quy đinh của Hiệp định GAT/WTO mà Việt Nam là thành viên. Thứ hai, việc quản lý sau cấp phép đối với các VPĐD-CNNN (kể cả VPĐD-CN do các bộ chuyên ngành cấp) đều do các Sở Công Thương thực hiện. Cơ quan cấp phép, ngoài việc cấp giấy phép thành lập cho thương nhân, hầu như không có bất kỳ động thái nào khác để quản lý đối với hoạt động của VPĐD-CN.
Về điều kiện cấp giấy phép thành lập VPĐD-CN (Điều 4), Nghị định 72/NĐ-CP chưa quy định số trường hợp như: Giám đốc (hoặc người đại diện theo pháp luật) của công ty nước ngoài có địa chỉ thường trú tại Việt Nam; công ty nước ngoài có cổ đông là công ty Việt Nam hoặc công dân Việt Nam; công ty Việt Nam đăng ký thành lập ở nước ngoài nhưng mở VPĐD tại Việt Nam, có trụ sở giao dịch, ban lãnh đạo công ty và toàn bộ hoạt động của công ty đều diễn ra ở Việt Nam..., nên các cơ quan chức năng rất khó khăn trong việc xem xét cấp giấy phép thành lập
Về hồ sơ cấp phép (Điều 5) quy định: “Trường hợp giấy đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương quy định thời hạn hoạt động của thương nhân nước ngoài thì thời hạn đó phải còn ít nhất là 1 năm” là không khả thi. Bởi các nước như: Hoa Kỳ, Canada, giấy phép kinh doanh của thương nhân được cấp và gia hạn mỗi năm một lần. Đối với các trường hợp này, nên quy định thời hạn hoạt động của công ty mẹ còn lại là 3 tháng, mới tạo điều kiện cho thương nhân được cấp phép hoạt động
Đối với việc thành lập bộ máy quản lý của VPĐD-CN (Điều 9): Do không có quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức, số người làm việc trong VPĐD-CN, nên trong thời gian qua, lợi dụng sơ hở này các VPĐD-CNNN đã tuyển dụng người nước ngoài làm việc vượt quá phạm vi hoạt động của một VPĐD, có trường hợp VPĐD sử dụng hàng trăm lao động người nước ngoài. Nên chăng, khi sửa đổi Nghị định 72/NĐ-CP cần có quy định cụ thể về số lượng người lao động là việc trong VPĐD-CN. Ví dụ, người nước ngoài làm việc tại CN không quá 5 người, làm việc trong VPĐD không quá 10 người.
Về sửa đổi, bổ sung giấy phép thành lập VPĐD quy định, trong 10 ngày kể từ ngày VPĐD-CNNN thay đổi về địa điểm đặt trụ sở của công ty mẹ, tên gọi hoặc hoạt động của VPĐD, phải làm thủ tục sửa đổi, bổ sung giấy phép là không khả thi vì hồ sơ chỉnh giấy phép theo mẫu MD2 bao gồm các giấy tờ pháp lý từ công ty mẹ phải được hợp pháp hóa lãnh sự trong vòng 10 ngày không thể hoàn thành thủ tục
Về gia hạn giấy phép (Điều 14.3) quy định: “Trong thời hạn ít nhất 30 ngày, trước khi giấy phép thành lập VPĐD-CNNN hết hạn, thương nhân nước ngoài phải làm làm thủ tục gia hạn” cũng không khả thi, vì khi giấy phép của công ty mẹ hết hạn, cơ quan cấp phép mới gia hạn tiếp, do đó, trong vòng 30 ngày công ty mẹ không thể hoàn thành xong thủ tục.
Quyền, nghĩa vụ và người đứng đầu VPĐD (Điều 20) không quy định cụ thể một số trường hợp. Trưởng VPĐD-CNNN không được kiêm nhiệm như giám đốc các dự án thầu xây dựng, chủ tịch hội đồng quản trị và các thành viên hội đồng quản trị của thương nhân nước ngoài... nên gây khó khăn cho cơ quan quản lý trong quá trình cấp phép.
Hy vọng, những bất cập trên sẽ sớm được các cơ quan chức năng xem xét để bổ sung, sửa đổi Nghị định 72/NĐ-CP, nhằm đưa việc quản lý VPĐD-CNNN được thống nhất, thuận lợi, có hiệu quả, phù hợp với lộ trình mở cửa thị trường của Việt Nam.
TS Phạm Sỹ Chung - Vụ Kế hoạch (Bộ Công Thương)