Mang mang tiếng rao đêm Hà Nội xưa
Quán bán hoa xưa đầu đường Hàng Khay |
Quê gốc tôi ở làng Chèm, nhưng vào những năm 1953, 1954, khi tôi 5, 6 tuổi thì nhà tôi lại ở giữa phố Duy Tân (tức Hàng Bài ngày nay). 60 năm trôi qua vẫn không thể xóa đi những gì tôi nhớ về Hà Nội thủa ấy. Mỗi khi nhớ về Hà Nội những năm tháng đó, tôi chỉ nhớ đến những thú vui và những món quà Hà Nội một thời.
Nhà tôi cách phố tràng Tiền, Tràng Thi và Bờ Hồ chỉ vài trăm mét. Trước nhà tôi lại có đường ray tàu điện leng keng. Mẹ tôi vốn kỹ tính nên dặn cậu tôi trông tôi thật kỹ đừng để theo chúng bạn leo lên tàu điện, hỏng người hay là không an toàn. Thế là tôi mỗi khi mẹ tôi đi vắng, cậu tôi nhãng đi là tôi lại lọ mọ đi ngược lên phía Bờ Hồ. Lên đó, nơi tôi tha thẩn đầu tiên bao giờ cũng là quầy bán hoa tươi. Đó là một ki-ốt được xây nghiêm chỉnh, chắc chắn bằng gạch luôn quét vôi vàng tươi, nằm ngay hè ngã tư Tràng Tiền- Hàng Khay. Những cô gái tân thời, những bà mệnh phụ Hà thành xách làn, ngồi xích lô hình như bao giờ cũng bắt đầu một ngày bằng việc ghé vào quán hoa tươi để chọn mua những bó hoa long lanh sương và nước từ tay những cô bán hoa luôn luôn mặc áo tứ thân the nâu, thắt đôi vạt trước bụng.
Hàng rong Hà Nội xưa |
Ngắm hoa một lúc, tôi mới vòng ra phía sau quầy hoa tươi. Ở đó không biết bao nhiều thứ hấp dẫn đang chờ đón một đứa trẻ như tôi. Những quầy bán nước giải khát lưu động ven hồ. Trên chiếc xe đẩy có những chiếc giá gỗ đặt những lọ thủy tinh trắng xóa nước gạo, vàng nhạt nước cam, xanh lơ nước bạc hà… Thứ nào cũng chỉ một xu một cốc mà mát lịm, ngọt thỉu.
Rồi đến bác bán kẹo kéo. Chiếc khăn màu cháo lòng quấn quanh đầu (cũng có hôm bác đội mũ cát cũ), một vai bác đeo một cái hộp gỗ gấp, vai bên đeo giá đỡ, tay bác rung chuông lanh lảnh để hòa nhịp với tiếng rao “kẹo kéo, kéo kéo đ...ơ...i... Mua một xu quay xung quanh sẽ được một, được hai, được ba...khúc kẹo ơ... ơ”. Khi thấy đám trẻ ùa đến, lập tức bác hạ giá xuống, đặt chiếc hộp gỗ lên mở ra, lập tức một chiếc bàn hiện lên, trên đó có một cái trục để làm trục cho một thành sắt gắn mũi tên quay trên hình tròn đánh số từ một đến mười. Cạnh đó là cục kẹo kéo tròn, dài trắng phau được bọc nửa kín nửa hở bằng mảnh khăn trắng bong như màu kẹo. Cho đến bây giờ tôi vẫn thích thú vị kẹo kéo ngọt thanh bởi đường và nha hòa cùng cái bùi ròn tan của nhân lạc. Không chỉ mê vị kẹo mà tôi còn bị hấp dẫn khi nhìn bàn tay khéo léo của bác bán hàng kéo thanh kẹo dài ra, rồi đột ngột bác chém tay, một tiếng”cách” vang lên khe khẽ, gọn gàng, một khúc kẹo rời ra đúng ý bác. Nhưng hấp dẫn hơn là khi mắt đám trẻ chúng tôi hau háu dõi theo thanh sắt ngang quay vòng tròn sau cái đẩy nhẹ của bác bán hàng, để rồi chờ xem mũi tên chỉ vào số mấy. Thằng Mỹ số nhà chẵn đối diện với nhà tôi không hiểu sao nó chỉ mua một xu mà khi nào quay nó cũng trúng lúc ba, lúc bốn khúc kẹo. Còn tôi hôm nào may lắm cũng chỉ trúng được hai đoạn….
Liền với mấy quầy giải khát là mấy bà, mấy ông bán kem thùng. Bà Vi lác bán kem que. Kem của bà lấy từ bên Thủy Tạ sang. Bà Lý thọt lại lấy kem ở Tràng Tiền. Nhưng riêng với tôi, dạo đó tôi rất thích những cái kem gói của ông Năm rỗ. Mỗi khi nhìn thấy tôi, mặt ông không động đậy, duy đôi môi lập bập điếu thuốc lá tây quăng bảo nhỏ “ăn chứ”. Thế là ông mở cái hộp gỗ hình chữ nhật thò diềm của bao tải lấy ra cái kem được gói trong thứ giấy cứng, sẫm màu như giấy xi măng đưa cho tôi. Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên được mùi thơm, độ cứng và sự dẻo của cái kem vuông...
Nhưng rồi tất cả những món quà có sức hút đến đâu vẫn không thể làm bọn trẻ chúng tôi quên được thứ chơi cực kì quyến rũ. Đó là trò xi nê nhòm. Có lẽ ông xi nê nhòm mỗi hôm đi một phố quanh Hà Nội này thì phải. Ngay như ở Bờ Hồ này thì hôm nay ông ở góc đường Tràng Thi, mai ông lại vỉa hè Thủy Tạ, rồi lên vườn hoa Chí Linh... Chẳng thế mà bọn trẻ chúng tôi rất nhớ khi vắng ông. Các ông, bà bán kem, bán nước giải khát, bán kẹo kéo… chúng tôi còn lỗ mỗ biết tên, nhưng riêng ông xi nê nhòm thì chúng tôi chưa bao giờ biết tên ông nên chỉ gọi là “ông xi nê nhòm”. Đó là một cái thùng dài phía trên có nhô lên một bộ phận gì đấy phủ vải đen kín mít mà bọn trẻ chúng tôi tò mò mấy cũng không tài nào biết. Cái thùng có hai, ba lỗ nhỏ để nhòm vào. Một dành cho ông chủ, hai cửa kia dành cho bọn trẻ bỏ tiền ngó vào. Chiếc hòm nhìn bề ngoài thật đơn giản chả khác gì cái hòm, cái va li đựng quần áo, vật dụng thông thường. Nhưng khi đưa cho ông xi nê một chinh, ghé mắt vào thì chao ôi. Một thế giới sống động hiện ra trên cái màn hình nhỏ chỉ bằng hai bàn tay chập lại. Sự sống động càng tăng lên cùng tiếng thuyết minh khàn khàn của ông xi nê: “Tắc Giăng đang đuổi cá sấu. Cá sấu giờ tức mình quay lại đuổi Tắc Giăng. Chạy nhanh. Chạy nhanh. Quá giỏi. Thế là không đớp được chân Tắc Giăng rồi”. Tôi đang hồi hộp theo dõi thì ông xi nê đẩy vai tôi ra “thằng này hết giờ rồi. Thằng kia vào đi”. “Tắc Giăng bắt được cá sấu rồi. Bắt được rồi”...
Đêm mùa đông xuống. Mới gần 9 giờ tối mà đường phố vắng teo. Nằm trong nhà trùm chăn ngồi chép chính tả nhưng tai tôi luôn luôn nghe thấy những tiếng động ngoài phố dội vào. Đó là tiếng chuông leng keng của chuyến tàu điện cuối cùng từ chợ Mơ đang chạy lên vội vã.. Có tiếng ai đó ngoài hè phố “đã 9 giờ rồi cơ à?”. Sau đó là sự im lặng mông lung. Tiếng gió len lén dạo trên những mái nhà. Rồi đột ngột là tiếng sực tắc ròn, gọn vẳng lên từ xa đến gần. Tôi hình dung ra đứa trẻ, hay anh thanh niên với đôi chân trần đang lướt đi trong phố lạnh, hai tay rập liên tiếp hai thành tre vàng nhạt nhẵn bóng vào nhau để vang tiếng “cách cách” trùng điệp không dứt. Có lần vì tò mò nhiều hơn, tôi đòi ăn “sực tắc”. Mẹ tôi bảo: “Trời đang lạnh không ra ngoài được, mà bảo người ta mang từ Hàng Buồm về đến đây, lại phải hâm lại mất ngon đi”. Tiếng gõ ròn vang đến ngang nhà tôi rồi cứ thế xa dần, nhỏ dần cho đến khi tan biến vào khoảng không của một đêm đông Hà Nội. Sau lần mẹ tôi nói vậy tôi không đòi và ngay cả bây giờ gần trọn một đời người tôi cũng chưa bao giờ ăn món sực tắc ấy, nhưng quả tình tiếng rao đầy cô đơn của nó như thân phận của một đời người luôn ám ảnh và trở đi trở lại trong tôi... Tiếng sực tắc tan dần đến vắng lặng một lúc để rồi thay vào đó là những tiếng rao khi thưa thớt cầm canh tiếng một “ai bánh tây ba tê đây”, khi tiếng rao nọ rụt rè cất lên nối vào tiếng rao kia “ai bánh khúc, xôi lạc đ... ơ…i”. “Dầu cháo quẩy nóng... Dầu cháo quẩy nóng”. “Phá xa, húng lìu nóng ròn đây”...
Ôi, những tiếng rao một thời nằm lịm trong nỗi nhớ Hà Nội một thuở của tôi!