Ảnh minh họa |
Theo quy định mới, kể từ ngày 21/5/2016, sản phẩm cá ngừ XK vào Mỹ phải đủ điều kiện dán nhãn “An toàn cá heo”. Để vượt qua rào cản này, doanh nghiệp (DN) phải thay đổi mẫu cam kết thuyền trưởng và tổ chức khóa tập huấn “Đào tạo an toàn cá heo dành cho thuyền trưởng”.
Hoặc, khi XK cá ngừ vào EU, DN phải vượt qua rào cản cao hơn: Được một tổ chức “bên thứ ba” chứng minh đủ điều kiện dán nhãn “An toàn cá heo. Trên thế giới hiện chỉ có 4 tổ chức lớn đảm nhiệm vai trò này, chẳng hạn như Earth Island Institute (EII). Việt Nam có 14 DN đã được EII chứng nhận. Để duy trì việc chứng nhận, mỗi DN phải nộp cho EII 5.000- 6.000 USD/năm, bao gồm: Phí thường niên, phí đánh giá DN, phí đánh giá tại cảng...
Đó chỉ là một vài ví dụ trong nhiều rào cản kỹ thuật được các thị trường cao cấp dựng lên. Tuy nhiên, thủy sản Việt vẫn nhẫn nại, chịu khó, tìm mọi cách vượt qua.
Rào cản kỹ thuật tại thị trường ngoại còn dễ hiểu, song những “rào cản hành chính” ngay tại trong nước làm nản lòng DN thì thật khó hiểu. Điển hình như giấy chứng nhận thủy sản khai thác khi XK thủy sản vào EU.
Có tờ báo đưa tin: Chi cục Quản lý chất lượng và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản TP. Hồ Chí Minh sẽ ngừng cấp giấy chứng nhận thủy sản khai thác đối với các lô hàng có nguyên liệu thủy sản khai thác không thuộc địa bàn TP. Hồ Chí Minh kể từ ngày 1/8/2016, lý do: Khoản 7, Điều 18 (trách nhiệm và quyền hạn của chủ hàng) của Thông tư 50/2015/TT- BNNPTNT ngày 30/12/2015 (có hiệu lực từ 15/2/2016) quy định: “Được lựa chọn một trong các cơ quan thẩm quyền đã xác nhận nguyên liệu thủy sản khai thác để nộp hồ sơ đề nghị chứng nhận thủy sản khai thác”.
Hầu hết các DN chế biến thủy sản tại TP. Hồ Chí Minh đều mua nguyên liệu tại Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thanh Hóa... rồi chuyển về nhà máy tại thành phố để chế biến, xuất khẩu vào EU. Trước đó, việc xác nhận thủy sản khai thác thuộc các chi cục thủy sản địa phương.
Và, Thông tư 50 trao cho DN “trách nhiệm” và “quyền hạn”... phi thực tế: “Đốt” thêm nhiều chi phí, tiền bạc, thời gian... để chạy vạy xin cấp giấy chứng nhận thủy sản khai thác. Ví dụ, nếu DN mua nguyên liệu thủy sản ở 1 địa phương chia thành 20 lô hàng XK, sẽ phải đi - về địa phương đó tới 20 lần; hoặc 1 lô hàng XK có nguyên liệu mua tại 2-3 địa phương, DN phải lặn lội về 2-3 chi cục thủy sản...
Có ai thấu hiểu những gian khó của DN khi phải vượt qua những rào cản “hành... là chính”?