Thông qua 8 cơ chế đặc thù cho chương trình mục tiêu quốc gia
Tiếp tục Kỳ họp bất thường lần thứ 5, sáng 18/1, Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia với 455 đại biểu tham gia biểu quyết tán thành (chiếm tỷ lệ 92,29%).
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc thù thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia |
Tại phiên họp, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm trình bày báo cáo tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo nghị quyết.
Nội dung cơ bản của nghị quyết tập trung vào Điều 4, quy định cụ thể 8 cơ chế, chính sách đặc thù trong thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia.
Theo đó, về cơ chế thí điểm phân cấp cho cấp huyện trong quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2024-2025 (khoản 7, Điều 4), nghị quyết quy định: Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quyết định lựa chọn không quá 2 huyện thực hiện thí điểm cơ chế phân cấp. UBND cấp tỉnh quyết định giao mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu cụ thể đối với từng chương trình mục tiêu quốc gia cho huyện được lựa chọn thí điểm.
Hội đồng nhân dân cấp huyện được quyết định điều chỉnh phương án phân bổ vốn đầu tư công, kinh phí thường xuyên giữa các chương trình mục tiêu quốc gia trong kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư vốn hằng năm, dự toán ngân sách nhà nước hằng năm đã được cấp có thẩm quyền giao.
Việc quyết toán ngân sách nhà nước hằng năm của các huyện thực hiện cơ chế thí điểm được thực hiện theo dự toán ngân sách nhà nước, kế hoạch đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư vốn hằng năm đã được Hội đồng nhân dân huyện điều chỉnh theo quy định tại điểm b, khoản 7.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm cho biết, về phân bổ, giao dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm (khoản 1, Điều 4), có ý kiến đề nghị tại điểm c, nêu rõ “trong trường hợp cần thiết Hội đồng nhân dân tỉnh phân cấp cho cấp huyện…”, cần cụ thể để thực hiện.
Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Y Thanh Hà Niê Kđăm |
Có ý kiến cho rằng, Hội đồng nhân dân tỉnh chỉ giao tổng vốn cho cấp huyện, việc phân bổ chi tiết các dự án, tiểu dự án thành phần nên giao cho cấp huyện để chủ động, linh hoạt điều chỉnh các dự án, tiểu dự án. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến của đại biểu là xác đáng và tiếp thu tại điểm c như sau: “Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, hoặc phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp huyện phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách trung ương hằng năm của từng chương trình mục tiêu quốc gia chi tiết đến dự án thành phần”.
Về điều chỉnh dự toán ngân sách nhà nước, điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn hằng năm (khoản 2, Điều 4), tại điểm c, có ý kiến cho rằng, cần phân cấp cho địa phương được quyền điều chỉnh dự toán, kế hoạch giữa các chương trình và giữa vốn sự nghiệp với vốn đầu tư nhưng phải có nguyên tắc để đảm bảo các mục tiêu chung của chương trình.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, ý kiến tham gia là phù hợp và tiếp thu, điều chỉnh theo hướng, Quốc hội cho phép Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo với Thường trực HĐND cho phép điều chỉnh, báo cáo lại Hội đồng nhân dân ở kỳ họp gần nhất để tạo sự linh hoạt, kịp thời cho địa phương.
Về quản lý, sử dụng tài sản hình thành từ dự án hỗ trợ phát triển sản xuất (khoản 5), đa số ý kiến thống nhất không áp dụng quy định quản lý tài sản công đối với tài sản có vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước dưới 500 triệu đồng, đồng thời đề nghị cần làm rõ cơ sở xác định mức dưới 500 triệu và cần phải có nguyên tắc, cơ chế quản lý đối với các tài sản có giá trị từ 500 triệu trở lên.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, cơ sở để đề xuất mức dưới 500 triệu đồng không áp dụng quy định quản lý tài sản công đã được Chính phủ giải trình làm rõ trong Tờ trình số 13/TTr-CP ngày 12/1/2024.
Việc xác định dựa trên cơ sở tham khảo mức giá trị tài sản theo quy định về xác định giá trị tài sản, vật tư, vật liệu trong quá trình tổ chức thanh lý tài sản công quy định tại Điều 31 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 và quy định về giá trị tài sản lớn của một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương.
Về hiệu lực thi hành, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, nghị quyết có hiệu lực từ ngày ban hành cho đến khi Quốc hội có quy định khác là phù hợp trong khi thực hiện thí điểm.