Kiến nghị loại bỏ đại lý thuế và hải quan khỏi danh mục kinh doanh có điều kiện Quảng Ninh mở lại các hoạt động kinh doanh có điều kiện từ 11/3 |
Trả lời Công văn số 3116/BCT-TTTN của Bộ Công Thương về việc đề nghị cho ý kiến đối với việc sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ “Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện” quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đưa ra 3 ý kiến.
Thứ nhất, về tính pháp lý, theo VCCI, Điều 25 Luật Thương mại 2005 trao quyền cho Chính phủ quy định về Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa kinh doanh có điều kiện và điều kiện để được kinh doanh hàng hóa đó. Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn Điều này của Luật Thương mại 2005.
Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”, khoản 2 Điều 2 Bộ luật dân sự 2015 quy định “Quyền dân sự chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.”.
“Theo các quy định này, quy định liên quan đến hạn chế quyền của công dân đều phải được quy định tại văn bản cấp luật. Nghị định 59/2006/NĐ-CP ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh là chưa phù hợp về mặt thẩm quyền ban hành theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015” – VCCI nêu rõ.
Cũng theo VCCI, mặc dù, Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại 2005 nhưng Luật Thương mại 2005 ban hành trước Hiến pháp 2013 và Bộ luật dân sự 2015. Theo quy định tại khoản 1 Điều 119 Hiến pháp 2013, khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015, quy định về thẩm quyền quy định về hạn chế quyền của công dân sẽ áp dụng theo quy định tại Hiến pháp 2013, Bộ luật dân sự 2015.
Thứ hai, về tính thống nhất, văn bản trả lời của VCCI cho rằng, nghị định 59/2006/NĐ-CP quy định về Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện.
Điều kiện để được kinh doanh các loại hàng hóa trong các Danh mục này được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh” (tức là: các chủ thể kinh doanh phải đáp ứng các điều kiện nhất định mới được phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch vụ) chứ không phải là “điều kiện của hàng hóa, dịch vụ”.
Luật Đầu tư 2020 quy định Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, trong đó xác định điều kiện để được kinh doanh các ngành nghề trong Danh mục được áp dụng trên “chủ thể kinh doanh”.
Như vậy, tính chất của hai loại Danh mục của Nghị định 59/2006/NĐ-CP và Luật Đầu tư 2020 là giống nhau, đều ràng buộc điều kiện đối với chủ thể kinh doanh.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Đầu tư 2020 “Trường hợp có quy định khác nhau giữa Luật Đầu tư và luật khác đã được ban hành trước ngày Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành về ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thì thực hiện theo quy định của Luật Đầu tư.”. Như vậy, các quy định về ngành, nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện sẽ áp dụng theo quy định tại Luật Đầu tư 2020.
Mặt khác, nếu xem xét các loại hàng hóa, dịch vụ trong Danh muc của Nghị định 59/2006/NĐ-CP nhận thấy: Về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện và ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP có một số điểm khác so với Danh mục quy định tại Điều 6 Luật Đầu tư 2020: một số hàng hóa, dịch vụ quy định tại nghị định không có hoặc đã sửa đổi trong Luật Đầu tư.
“Việc tồn tại Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP đưa đến những rủi ro pháp lý cho doanh nghiệp, bởi vì Nghị định này vẫn đang có hiệu lực, nếu kinh doanh những loại hàng hóa, dịch vụ không có trong Danh mục của nghị định nhưng lại có trong Danh mục của Luật Đầu tư, doanh nghiệp sẽ không phải đáp ứng điều kiện gì nếu theo quy định tại nghị định, nhưng lại phải đáp ứng điều kiện kinh doanh nếu theo quy định tại Luật Đầu tư và ngược lại” - văn bản trả lời của VCCI khẳng định.
Đặc biệt, các hàng hóa, dịch vụ được liệt kê trong Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP được dẫn chiếu tới các văn bản quy định chi tiết, rất nhiều văn bản này đã hết hiệu lực. Tên của hàng hóa, dịch vụ trong Danh mục này cùng với cơ chế quản lý cũng đã thay đổi theo quy định hiện hành.
Ví dụ: Các dịch vụ liên quan đến hàng hải (dịch vụ kiểm đếm hàng hóa; dịch vụ vệ sinh tàu biển; dịch vụ xếp dỡ hàng hóa tại cảng biển), pháp luật về hàng hải không còn quy định chi tiết về các dịch vụ này nữa. Vì vậy, nếu áp dụng theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP doanh nghiệp sẽ không biết áp dụng theo quy định nào, tại văn bản nào.
Thứ 3, liên quan đến tính chất của Danh mục quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP, VCCI nêu câu hỏi, không rõ Nghị định 59/2006/NĐ-CP có tập hợp tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện không? Các văn bản khác không được ban hành thêm và/hoặc khác các hàng hóa, dịch vụ đã được liệt kê trong Danh mục tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP? Danh mục trong nghị định này có tương tự như tính chất của Danh mục ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, kinh doanh có điều kiện quy định tại Luật Đầu tư 2020 không?
Đây là vấn đề chưa được làm rõ trong Nghị định 59/2006/NĐ-CP cũng như Luật Thương mại 2005. Chính vì vậy, các hàng hóa, dịch vụ trong Danh mục quy định tại Nghị định 59/2006/NĐ-CP chưa thể hiện rõ vai trò, ý nghĩa hay mục tiêu chính sách.
Mặt khác, việc ban hành Danh mục tập hợp tất cả các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện trong một văn bản cấp nghị định, sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát các văn bản cùng cấp hay các văn bản cấp luật ban hành thêm các hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện.
Từ những phân tích ở các điểm trên, văn bản trả lời của VCCI cho rằng, việc bãi bỏ Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện là có cơ sở và phù hợp.