Việt Nam trở thành trung tâm thương mại chính cho các doanh nghiệp Anh hoạt động tại châu Á - Thái Bình Dương
Bộ Thương mại Quốc tế Anh (DIT) đã tuyên bố các lý do để xuất khẩu sang Việt Nam bao gồm: (i) một trong 20 thị trường tăng trưởng cao của DIT; (ii) dự báo sẽ là một trong 10 nền kinh tế phát triển nhanh nhất trong thập kỷ tới sau khi vượt qua Singapore để trở thành nền kinh tế lớn thứ tư của Đông Nam Á vào năm 2020; (iii) tiếp tục tự do hóa nền kinh tế; và (iv) thành viên của ASEAN và khu vực thương mại tự do AFTA, với tư cách là một khối khu vực hoặc một nhóm nhỏ các quốc gia có ảnh hưởng, đã là động lực quan trọng trong việc ký kết các hiệp định thương mại và đầu tư khu vực rộng lớn hơn.
Bức tranh thương mại Việt - Anh
Năm 2020, xuất khẩu hàng hóa của Anh sang Việt Nam lên tới 692 triệu USD; giảm lần lượt từ 839 triệu USD và 776 triệu USD trong năm 2018 và 2019. Các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất là y tế và dược phẩm trị giá 131 triệu USD vào năm 2020, tiếp theo là máy móc cơ khí và thiết bị điện với khoảng 85 triệu USD mỗi loại. Nhập khẩu cũng giảm, đạt 5 tỷ USD vào năm 2020, giảm so với 5,9 và 6 tỷ USD trong hai năm trước đó. Do đó, cán cân thương mại hàng hóa tiếp tục có lợi cho Việt Nam phản ánh vị thế ngày càng tăng của Việt Nam như một nền tảng sản xuất quốc tế lớn cho các công ty chủ yếu từ Đông Bắc Á, cũng như Tây Âu và Mỹ.
Ngoài xuất khẩu hàng hóa, Vương quốc Anh có xu hướng thặng dư dịch vụ. Năm 2018, là năm có dữ liệu cuối cùng, xuất khẩu dịch vụ của Vương quốc Anh là 435 triệu USD, trong khi nhập khẩu là 304 triệu USD.
Các dịch vụ xuất khẩu chính là dịch vụ tài chính cùng với sự hiện diện của các đại gia ngân hàng Anh, HSBC và Standard Chartered, tại Việt Nam. Tuy nhiên, các lĩnh vực dịch vụ đang phát triển xuất khẩu khác bao gồm giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, đào tạo kỹ thuật và dạy nghề, dịch vụ hỗ trợ trong các lĩnh vực tái tạo và hydrocacbon của Việt Nam, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng và giao thông vận tải, và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đang phát triển nhanh bao gồm đào tạo y tế, dịch vụ y tế lâm sàng và kỹ thuật số.
Mặc dù tăng trưởng nhanh và tiềm năng lớn trong xuất khẩu dịch vụ, nhưng tổng xuất khẩu vẫn còn nhỏ so với các đối tác thương mại khác của Vương quốc Anh trên khắp châu Á, bao gồm hầu hết các nền kinh tế ASEAN, mặc dù xuất khẩu đã tăng 66% trong vài năm qua. Tuy nhiên, quan hệ thương mại song phương sẽ được mở rộng trong vòng 5 năm tới, theo Heather Wheeler, đặc phái viên thương mại của Vương quốc Anh tại Việt Nam, Campuchia và Lào sau Hiệp định Thương mại tự do Anh - Việt (UKVFTA) được ký kết vào năm 2020.
Do đó, Việt Nam ngay lập tức hạ thuế quan, chiếm khoảng một nửa lượng hàng hóa xuất khẩu của Anh, trong khi khoảng 92% thuế quan sẽ về 0% trong vòng sáu năm. Thỏa thuận mới cũng dựa trên các điều khoản được tìm thấy trong các FTA hiện đại và bao gồm các biện pháp như tiêu chuẩn hóa dữ liệu, trao đổi thông tin, tuân thủ và hợp tác trong các vấn đề hải quan, minh bạch và dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan. Vương quốc Anh đã xác định được sự tồn tại của tới 40 rào cản tiếp cận thị trường mà gần đây đã được ưu tiên giải quyết trong các Ủy ban hỗn hợp với các cơ quan thương mại của Việt Nam.
Cam kết liên chính phủ
Năm 2010, Vương quốc Anh và Việt Nam đã nhất trí về quan hệ đối tác chiến lược nâng tầm quan hệ thương mại trong một số lĩnh vực chính bao gồm thương mại và đầu tư, phát triển bền vững, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo. Một quan hệ đối tác chiến lược hơn nữa thiết lập lộ trình cho thập kỷ tới đã được thống nhất vào năm 2020.
Quan hệ đối tác năm 2020 chú trọng nhiều hơn đến phát triển bền vững thông qua việc bao gồm đối phó với các thách thức do biến đổi khí hậu gây ra. Ở mức độ này, nó thúc đẩy quá trình đô thị hóa bền vững, quản lý tài nguyên nước, bảo vệ môi trường, quản trị đại dương, dịch vụ khí tượng thủy văn, chăm sóc sức khỏe và đổi mới, bao gồm hợp tác về nền kinh tế kỹ thuật số, thành phố thông minh, cơ sở hạ tầng và xây dựng, phù hợp với các Mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc. Nó cũng tập trung nhiều hơn vào việc phát triển năng lượng xanh, thông qua sự hỗ trợ của Vương quốc Anh đối với chiến lược tăng trưởng carbon thấp của Việt Nam và chuyển đổi sang năng lượng tái tạo. Điều này liên quan đến việc phát triển năng lượng gió và năng lượng mặt trời thông qua thương mại và đầu tư góp phần giảm phát thải khí nhà kính, được hỗ trợ bởi các nguồn tài chính xanh của Vương quốc Anh. Mối quan hệ đối tác mới cũng mong muốn tăng cường quan hệ thông qua Ủy ban Hỗn hợp kinh tế và thương mại (JETCO) hàng năm.
Vương quốc Anh và Việt Nam có Hiệp định đầu tư song phương (BIT) có hiệu lực vào năm 2002. Đây là Hiệp định BIT cấp cơ bản phản ánh thời kỳ, tuy nhiên quy định cấm các biện pháp bất hợp lý, tùy tiện hoặc phân biệt đối xử. Nó cũng bao gồm các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước, nơi sự đồng ý cho trọng tài có thể được thể hiện rõ ràng hoặc ngụ ý, trong khi các lựa chọn trọng tài bao gồm các diễn đàn quốc tế của ICSID và UNCITRAL. BIT không bao gồm các biện pháp bảo vệ chi tiết hơn và điều khoản hiện đại của Hiệp định Kết hợp giữa FTA EU-Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo vệ nhà đầu tư (IPA), được phê chuẩn trong giai đoạn chuyển đổi EU của Vương quốc Anh vào năm 2020.
Điều này là do, không giống như EVFTA, về cơ bản cấu thành UKVFTA mới, IPA không được chuyển đổi thành một hiệp ước đầu tư song phương tương đương. Hiệp định đánh thuế hai lần giữa Anh và Việt Nam (DTA) có hiệu lực đối với các loại thuế của Vương quốc Anh vào năm 1995. Do đó, hiệp định này áp dụng phiên bản cũ hơn của công ước thuế mẫu của OECD mà cơ quan thuế của cả hai nước đang tìm cách sửa đổi và cập nhật. Mặc dù vậy, điều quan trọng cần lưu ý là quyền đánh thuế đối với lãi vốn chủ yếu được cung cấp cho quốc gia nơi có tài sản, chứ không phải là quốc gia cư trú của người bán. Điều này có thể có ý nghĩa đối với các nhà đầu tư doanh nghiệp của Vương quốc Anh tại Việt Nam do thuế suất CGT, là thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, là 20%, trong khi thuế suất doanh nghiệp của Vương quốc Anh sẽ tăng từ 19% lên 25%, đối với hầu hết các công ty, kể từ năm 2023 trở đi.
Sự hiện diện ngày càng tăng của doanh nghiệp Anh tại Việt Nam
Đến năm 2020, Vương quốc Anh có khoảng 400 dự án đầu tư rải rác khắp cả nước, lên tới 3,7 tỷ USD vốn đăng ký và trở thành nguồn đầu tư nước ngoài lớn thứ ba của Việt Nam. Các công ty lớn của Vương quốc Anh như Dragon Capital, Standard Chartered, Diageo, Prudential, AstraZeneca, HSBC và Jardines đã đóng những vai trò quan trọng trong việc phát triển một số lĩnh vực nhất định của nền kinh tế, bao gồm tài chính, văn hóa, y tế và giáo dục. Đặc biệt, nhiều công ty lớn của Vương quốc Anh, cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có thể thu lợi đáng kể từ việc Vương quốc Anh có tiềm năng gia nhập CPTPP trong tương lai trong bối cảnh nước này đang liên tục nâng cấp các tiêu chuẩn về lao động và môi trường của Việt Nam, đồng thời mở rộng các cơ hội mua sắm chính phủ.
Việt Nam cũng sẽ sớm đóng vai trò là trung tâm thương mại và đầu tư lớn để tiếp cận Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) gồm 15 thành viên, dự kiến có hiệu lực vào năm 2021. Thông qua hiệp định này, các công ty của Vương quốc Anh có trụ sở tại Việt Nam sẽ có thể xuất khẩu theo ưu đãi đối với không chỉ các nền kinh tế ASEAN khác mà đối với các thị trường Đông Bắc Á khổng lồ như Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, cùng những thị trường khác.
Việt Nam, trong bối cảnh các thỏa thuận thương mại khu vực đang phát triển mà Việt Nam là thành viên, đang bắt đầu đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược đa dạng hóa của nhiều công ty Vương quốc Anh như một chiến lược được gọi là “Trung Quốc + 1”. Bằng cách đó, Việt Nam đang đánh bại các đối thủ nền tảng sản xuất chính trong khu vực như Malaysia, Thái Lan và Indonesia khi đứng đầu chỉ số chi phí cơ bản toàn cầu đối với đất đai, tiện ích, bồi thường theo giờ, thuế doanh nghiệp và các yếu tố đầu vào khác, trước Trung Quốc, Mexico và Malaysia ở bốn vị trí hàng đầu. Kết quả là, các nhà sản xuất của Vương quốc Anh từ hãng giày thời trang Ecco, nhà sản xuất mỹ phẩm Unilever và nhà sản xuất sản phẩm y tế AstraZeneca, đã thiết lập hoạt động tại Việt Nam, cùng với một số công ty công nghệ lớn của Vương quốc Anh có trung tâm gia công tại Việt Nam.
Cơ hội đầu tư tại Việt Nam
UKVFTA mới đưa ra một loạt các lĩnh vực mang lại cơ hội cho các nhà đầu tư Vương quốc Anh. Ví dụ, việc giảm bớt các rào cản kỹ thuật đối với việc cung cấp dịch vụ sẽ mở ra cơ hội cho các công ty dịch vụ chuyên nghiệp của Vương quốc Anh trong lĩnh vực kỹ thuật, kiến trúc và dịch vụ tài chính cùng những công ty khác. Việc mở rộng dự kiến cho các dịch vụ của Vương quốc Anh sẽ được hỗ trợ bởi các kế hoạch của Việt Nam về phát triển cơ sở hạ tầng đại chúng bao gồm cảng, sân bay, đường xá và các hình thức vận tải và hậu cần khác. Các dịch vụ CNTT của Vương quốc Anh cũng sẽ được hỗ trợ bởi các điều khoản của hiệp định thương mại về bảo hộ Sở hữu trí tuệ, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển phần mềm có thể tìm thấy triển vọng trên nhiều cơ hội kinh doanh và do người tiêu dùng dẫn đầu.
Một lĩnh vực khác mà UKVFTA dành sự hỗ trợ cho các nhà đầu tư Vương quốc Anh là bảo vệ các thương hiệu tiêu dùng, chẳng hạn như Scotch Whisky, vốn đã tìm thấy một thị trường thích hợp mạnh mẽ trong tầng lớp trung lưu ngày càng tăng của Việt Nam. Thị trường tiêu dùng Việt Nam ngày càng trở nên quan trọng khi tăng trưởng kinh tế từ xuất khẩu và đầu tư nước ngoài mở rộng sự giàu có và sức mua của các hộ gia đình mà các công ty Anh có thể xem xét tận dụng, ở giai đoạn chiến lược, thông qua các nền tảng bán lẻ trực tuyến và trực tiếp.
Dịch vụ giáo dục cũng là một lĩnh vực tiềm năng phát triển đáng kể đối với các nhà cung cấp tại Vương quốc Anh, là lĩnh vực mà DIT đã và đang tích cực thúc đẩy ở cả Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Sự hỗ trợ này bao gồm việc thiết lập một mô hình kinh doanh ảo để quảng bá các thương hiệu của Vương quốc Anh trong lĩnh vực giáo dục. Cuối cùng, năng lượng tái tạo (RE) là một lĩnh vực có thể được phát triển tiềm năng nhờ nguồn vốn đầu tư lớn của Vương quốc Anh và bí quyết kinh nghiệm.