Khủng hoảng giá khí đốt làm lu mờ khủng hoảng giá dầu
Theo đó, rắc rối về cung cấp khí đốt của Liên minh châu Âu và tác động liên quan đối với các nền kinh tế đang phát triển đang là tâm điểm chú ý trên thế giới, đến nỗi một vấn đề khác về nhiên liệu hóa thạch vẫn chưa được giải quyết, đó là giá dầu. Giá dầu nói chung đã giảm trong vài tháng qua, giảm khoảng 30% so với mức đỉnh đạt được hồi đầu năm, do bị áp lực bởi kỳ vọng kinh tế toàn cầu suy thoái. Bản thân sự chậm lại này có mối liên hệ chặt chẽ với giá năng lượng, cụ thể hơn là giá dầu và khí đốt. Và nói về giá dầu, mặc dù ngưỡng chuẩn giảm 30%, nhiều quốc gia mua dầu đang phải đối mặt với một hóa đơn nhập khẩu dầu cao, điều này sẽ làm trầm trọng thêm thách thức cho nền kinh tế của họ.
Lấy ví dụ như Ấn Độ - một trong những nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Một phân tích gần đây trên tờ Indian Express chi tiết rằng, do giá dầu tăng từ đầu năm nay, thâm hụt thương mại của Ấn Độ trong nửa đầu năm đã lên tới 150 tỷ USD và có thể tăng gấp đôi lên 300 tỷ USD trong cả năm. Điều này sẽ gây ra vấn đề với cán cân thanh toán của đất nước khi các bộ phận khác nhau của nền kinh tế tăng trưởng chậm lại do giá dầu cao hơn, không chỉ ở Ấn Độ mà cả ở phương Tây.
Và nói về phương Tây, khu vực châu Âu cũng có vấn đề về giá dầu tương tự như Ấn Độ. Trong một báo cáo gần đây về những rắc rối của các quốc gia nhập khẩu dầu mỏ, Bloomberg lưu ý rằng, châu Âu không chỉ là một nước nhập khẩu khí đốt tự nhiên lớn. Châu lục này, và cụ thể là EU, cũng nhập khẩu hầu hết lượng dầu mà họ tiêu thụ, có nghĩa là nó rất dễ bị biến động giá.
Báo cáo cho biết, tất cả các nền kinh tế lớn của châu Âu, bao gồm Đức, Ý, Tây Ban Nha và Pháp, phụ thuộc vào dầu nhập khẩu, chiếm tới 90% mức tiêu thụ của họ. Và điều này có nghĩa là, giống như Ấn Độ và Trung Quốc, EU có vấn đề với đồng đôla Mỹ. Đồng bạc xanh tăng giá do chính sách tiền tệ thắt chặt hơn của Fed đã góp phần đáng kể vào vấn đề khả năng chi trả mà hầu hết các nhà nhập khẩu dầu đang phải vật lộn trong năm nay. Vì hầu hết dầu được giao dịch trên khắp thế giới được định giá bằng đôla Mỹ, nên đồng đôla càng đắt, ngay cả khi bản thân giá dầu không thay đổi nhiều, thì hóa đơn nhập khẩu dầu này sẽ càng cao.
Chuyên gia Giovanni Staunovo, Nhà phân tích hàng hóa tại UBS chia sẻ rằng, đồng đôla mạnh hơn là một cơn gió lớn đối với các quốc gia tiêu thụ dầu mỏ mà tiền tệ của họ không liên quan đến đồng bạc xanh. Trong 12 tháng qua, giá dầu tính theo đồng nội tệ đã tăng nhiều hơn. Tình trạng này có thể có tác động lớn đối với thị trường dầu mỏ trong tương lai.
Trung Quốc - nhà nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới - đã cố gắng mở rộng việc sử dụng đồng nội tệ của mình trong thương mại quốc tế trong nhiều năm. Một sự trùng hợp là các đối tác BRICS và nhà cung cấp dầu lớn, Nga, rất đồng tình với ý tưởng về đồng nội tệ, đặc biệt là sau khi EU bắt đầu bắn các gói trừng phạt vào nước này sau cuộc chiến Ukraine.
Các quốc gia đang phát triển khác, bao gồm cả Ấn Độ, cũng đang đưa ra ý tưởng thay thế đồng tiền thương mại toàn cầu bằng đồng nội tệ của họ trong các giao dịch thương mại song phương. Ấn Độ thậm chí đã phát triển một cơ chế thanh toán thỏa thuận quốc tế bằng đồng rupee, mặc dù nước này vẫn đang thanh toán cho dầu của Nga bằng đôla Mỹ. Đây có thể là một xu hướng mới nổi đáng xem, nhưng nó có thể diễn ra như thế nào ở Liên minh châu Âu lại là một vấn đề hoàn toàn khác. EU đã hết lần này đến lần khác tuyên bố liên minh chặt chẽ với Mỹ, đặc biệt là trong lĩnh vực năng lượng.
Vì vậy, việc chuyển khỏi đồng bạc xanh với các giao dịch dầu có lẽ sẽ là một ý tưởng tồi khi Tổng thống Pháp Macron cáo buộc rằng Mỹ đang áp dụng các tiêu chuẩn kép trong việc có giá khí đốt trong nước thấp hơn giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng mà các công ty Mỹ bán cho châu Âu. Tuy nhiên, với vai trò quan trọng của đồng đôla Mỹ đối với khả năng chi trả của dầu trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng suy thoái, các quốc gia nhập khẩu khác có thể được thúc đẩy cho kế hoạch rời bỏ và bắt đầu sử dụng đồng nội tệ của họ nhiều hơn.