CôngThương - Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Kiên Giang, tỉnh hiện đang tập trung đầu tư các hướng khai thác có hiệu quả diện tích mặt nước các bãi triều, eo vịnh ven biển, quanh các đảo vào nuôi thủy sản mặn, lợ như nuôi thủy sản mặn, lợ ở các loại hình mặt nước phù hợp những vùng ven biển, ven đảo trên cơ sở tổ chức nhiều mô hình quản lý cộng đồng gắn với sinh kế người dân địa phương; phát triển nuôi thủy sản lồng bè trên biển, nhuyễn thể hai mảnh vỏ vùng ven biển, bãi triều theo hướng nuôi công nghiệp, bán công nghiệp, quảng canh cải tiến gắn với tham quan du lịch; quản lý tốt môi trường nguồn nước, thức ăn, con giống đảm bảo sản xuất sản phẩm sạch; đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất lượng các sản phẩm thủy sản chế biến, nhất là những mặt hàng có giá trị kinh tế gia tăng cao, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Hiện nay, người dân vùng biển tỉnh Kiên Giang đang tập trung nuôi cá lồng bè trên biển với các loài như cá bớp, cá mú, cá cam, cá hường bạc, tôm hùm… tại các khu vực quần đảo Nam Du (Kiên Hải), Bà Lụa (Kiên Lương), Hải Tặc (thị xã Hà Tiên) và quanh đảo Phú Quốc.
Mục tiêu đến năm 2015 toàn tỉnh đạt 1.500 lồng bè, với thể tích nuôi 150.000m3, sản lượng 3.000 tấn và năm 2020 là 3.000 lồng bè, thể tích nuôi 300.000m3, sản lượng 6.000 tấn.
Đối với loại hình nuôi nhuyễn thể hai mảnh vỏ như sò huyết, sò lông, hến… các khu vực nuôi tập trung ở vùng ven biển, vùng biển cạn gần bờ thuộc các huyện An Biên, An Minh, Hòn Đất, Kiên Lương và thị xã Hà Tiên.
Mục tiêu đến năm 2015 diện tích nuôi nhuyễn thể đạt 14.700ha, sản lượng 37.340 tấn và năm 2020 là 15.700ha, sản lượng 45.560 tấn. Ngoài ra, tỉnh còn phát triển một số thủy sản có giá trị cao như cua biển, ốc hương, ngọc trai, tu hài… ở các huyện ven biển, hai huyện đảo Phú Quốc, Kiên Hải và xã đảo Tiên Hải (thị xã Hà Tiên).
Để phát triển nuôi thủy sản ven biển-đảo bền vững, hiệu quả, đạt các mục tiêu đến năm 2015 và năm 2020, tỉnh Kiên Giang thực hiện chính sách giao đất, mặt nước khu vực ven biển, ven đảo cho các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình thuê nuôi thủy sản ổn định, lâu dài; đầu tư đường giao thông, lưới điện, đặc biệt là cơ sở sản xuất giống thủy sản chất lượng cao, đảm bảo nhu cầu nguồn giống thả nuôi, nhằm giúp ngư dân chủ động trong nuôi thủy sản ven biển, hải đảo.
Ngoài sử dụng lồng bè truyền thống kết hợp với cải tiến để giảm chi phí, tỉnh còn khuyến cáo ngư dân ứng dụng công nghệ làm lồng nổi Na Uy có khả năng chịu sóng gió cấp 7, cấp 8 khi nuôi cá lồng bè trên biển, sử dụng thức ăn công nghiệp vừa giảm áp lực khai thác nguồn cá tự nhiên làm thức ăn, vừa giảm ô nhiễm môi trường nước; liên kết, hợp tác quốc tế để tranh thủ vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật và công nghệ mới; xây dựng thương hiệu cho một số đối tượng nuôi chủ lực như cá bốp, cá mú, ốc hương… gắn với quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước.
Ngoài việc tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ ngư dân vay vốn nuôi thủy sản, tỉnh đã huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế trên cơ sở tạo môi trường đầu tư thông thoáng, cơ chế chính sách ưu đãi ổn định và lâu dài, đảm bảo phát triển bền vững.
Cùng với đó, ngân sách địa phương tập trung thực hiện các dự án quy hoạch, đầu tư khoa học-công nghệ, trang thiết bị cho phát triển nuôi thủy sản, sản xuất con giống, khu chế biến thủy sản xuất khẩu, dịch vụ hậu cần nghề biển.
Bên cạnh đó, tỉnh còn phát triển các hình thức tổ chức sản xuất như tổ hợp tác, hợp tác xã thủy sản theo phương thức cộng đồng cùng quản lý, vừa góp phần bảo vệ tốt môi trường, hạn chế ô nhiễm, vừa tái tạo, phát triển nguồn lợi thủy sản tự nhiên, nâng cao hiệu quả kinh tế, xóa đói giảm nghèo vùng ven biển, hải đảo.
Tổ chức nuôi thủy sản theo hướng áp dụng những quy trình nuôi sạch, quy phạm thực hành nuôi tốt, quy tắc nuôi có trách nhiệm… để nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, vì lợi ích và sức khỏe cộng đồng.