Lãi suất ngân hàng hôm nay ngày 5/1/2024, theo khảo sát của phóng viên Vuasanca tại website của 34 ngân hàng, chưa ghi nhận nhà băng nào điều chỉnh.
Sau 3 ngày làm việc đầu tiên của năm 2024, 8 ngân hàng điều chỉnh lãi suất huy động. Trong đó có 7 ngân hàng giảm lãi suất và 1 ngân hàng tăng lãi huy động gồm: BaoViet Bank, GPBank, Eximbank, SHB, Bac A Bank, KienLong Bank, LPBank; ngân hàng tăng lãi suất huy động là ACB.
Lãi suất huy động trực tuyến kỳ hạn từ 1 - 18 tháng cao nhất hiện nay là 6,5%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn 18 tháng tại HDBank. HDBank giữ nguyên mức lãi suất ở kỳ hạn này trong nhiều tháng nay. Ngay cả khi điều chỉnh lãi suất các kỳ hạn còn lại thì mức 6,5%/năm đối với kỳ hạn 18 tháng vẫn không thay đổi.
Ngoài HDBank, hiện chỉ còn số ít ngân hàng duy trì từ 6% trở lên đối với tiền gửi kỳ hạn 18 tháng. Theo đó, mức lãi suất từ 6%/năm đối với tiền gửi kỳ hạn 18 tháng còn được ghi nhận tại: NCB, KienLongBank, Viet A Bank (6%/năm); OCB, Nam A Bank, PG Bank, VietBank (6,1%/năm).
Tiền gửi kỳ hạn 6 - 9 tháng, mức lãi suất huy động cao nhất đang là 5,5%/năm |
Đáng chú ý, từ giữa tháng 11/2023 đến nay mức lãi suất 6%/năm hoàn toàn biến mất với kỳ hạn 9 tháng và 12 tháng tại các ngân hàng. Lãi suất huy động kỳ hạn 12 tháng hiện cao nhất là 5,8%/năm tại PGBank. HDBank, Nam A Bank, VietBank và NCB trả lãi suất thấp hơn một chút với mức 5,7%/năm cho kỳ hạn này.
Trong khi đó, với tiền gửi kỳ hạn 6 - 9 tháng, mức lãi suất huy động cao nhất đang là 5,5%/năm tại HDBank. Tiếp theo là các ngân hàng: NCB, ABBank, VietBank, Viet A Bank, PVCombank, KienLongBank với mức lãi suất từ 5,2 -5,4%/năm.
Đối với tiền gửi các kỳ hạn dưới 6 tháng, Ngân hàng Nhà nước cho phép tối đa 4,75%, nhưng thực tế đến thời điểm này, số ngân hàng niêm yết lãi suất kỳ hạn 1 - 5 tháng ở mức 4%/năm chỉ đếm trên đầu ngón tay. Có thể kể đến như: NCB, VietBank, Viet A Bank, OCB, CBBank, Nam A Bank, và BaoViet Bank.
Mức lãi suất huy động các kỳ hạn này đang phổ biến từ 3 - 3,9%/năm. Tuy nhiên một số ngân hàng đưa lãi suất các kỳ hạn 1 - 2 tháng xuống dưới 3% như: MB, LPBank, Saigonbank, Techcombank, ACB, BIDV, Agribank, VietinBank, BIDV. Thậm chí, SCB và Vietcombank còn niêm yết lãi suất kỳ hạn 1 - 2 tháng ở mức lần lượt 1,95% và 1,9%/năm.
BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CAO NHẤT NGÀY 5 THÁNG 1 NĂM 2024 | ||||||
NGÂN HÀNG | 1 THÁNG | 3 THÁNG | 6 THÁNG | 9 THÁNG | 12 THÁNG | 18 THÁNG |
HDBANK | 3,65 | 3,65 | 5,5 | 5,5 | 5,7 | 6,5 |
NCB | 4,25 | 4,25 | 5,35 | 5,45 | 5,7 | 6 |
ABBANK | 3,2 | 3,5 | 5,3 | 4,5 | 4,3 | 4 |
VIETBANK | 3,8 | 4 | 5,3 | 5,4 | 5,7 | 6,1 |
VIET A BANK | 4,3 | 4,3 | 5,3 | 5,3 | 5,6 | 6 |
PVCOMBANK | 3,35 | 3,35 | 5,3 | 5,3 | 5,4 | 5,7 |
KIENLONGBANK | 3,95 | 3,95 | 5,2 | 5,4 | 5,5 | 6 |
GPBANK | 3,4 | 3,92 | 5,15 | 5,3 | 5,35 | 5,45 |
BAC A BANK | 3,7 | 3,9 | 5,1 | 5,2 | 5,4 | 5,8 |
BAOVIETBANK | 3,8 | 4,15 | 5,1 | 5,2 | 5,6 | 5,8 |
CBBANK | 4,2 | 4,3 | 5,1 | 5,2 | 5,4 | 5,5 |
OCB | 3,8 | 3,9 | 5,1 | 5,2 | 5,4 | 5,55 |
BVBANK | 3,8 | 3,9 | 5,05 | 5,2 | 5,5 | 5,55 |
SHB | 3,5 | 3,8 | 5 | 5,2 | 5,4 | 5,8 |
DONG A BANK | 3,9 | 3,9 | 4,9 | 5,1 | 5,4 | 5,6 |
NAMA BANK | 3,3 | 4 | 4,9 | 5,2 | 5,7 | 6,1 |
PGBANK | 3,1 | 3,5 | 4,9 | 5,3 | 5,8 | 6,1 |
OCEANBANK | 3,7 | 3,9 | 4,8 | 5 | 5,5 | 5,7 |
VIB | 3,4 | 3,5 | 4,7 | 4,7 | 5,1 | |
SACOMBANK | 3,6 | 3,8 | 4,7 | 4,95 | 5 | 5,1 |
EXIMBANK | 3,4 | 3,7 | 4,6 | 5 | 5,1 | 5,5 |
TPBANK | 3,2 | 3,4 | 4,4 | 5 | 5,3 | |
MB | 2,9 | 3,2 | 4,4 | 4,6 | 4,9 | 5,4 |
SEABANK | 3,6 | 3,8 | 4,4 | 4,55 | 5 | 5,1 |
LPBANK | 2,8 | 3,1 | 4,3 | 4,4 | 5,3 | 5,7 |
VPBANK | 3,3 | 3,4 | 4,3 | 4,3 | 5,1 | 5,1 |
SAIGONBANK | 2,8 | 3 | 4,2 | 4,4 | 5,1 | 5,5 |
MSB | 3,5 | 3,5 | 4,2 | 4,2 | 4,9 | 4,9 |
TECHCOMBANK | 2,95 | 3,15 | 4,05 | 4,1 | 4,75 | 4,75 |
ACB | 2,9 | 3,2 | 3,9 | 4,2 | 4,8 | |
BIDV | 2,3 | 2,6 | 3,6 | 3,6 | 5 | 5 |
AGRIBANK | 2 | 2,5 | 3,6 | 3,6 | 5 | 5 |
VIETINBANK | 2,2 | 2,5 | 3,5 | 3,5 | 5 | 5 |
SCB | 1,95 | 2,25 | 3,25 | 3,25 | 4,85 | 4,85 |
VIETCOMBANK | 1,9 | 2,2 | 3,2 | 3,2 | 4,8 | 4,8 |
Trong bối cảnh lãi suất tiền gửi ngân hàng liên tục sụt giảm trong năm 2023, nhưng một nghịch lý lại diễn ra trên thị trường này là lãi suất tiết kiệm giảm kịch liệt thì lượng lớn tiền gửi tiết kiệm vẫn chảy vào kênh ngân hàng.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 21/12/2023, huy động vốn của các tổ chức tín dụng đã tăng 10,85% so với đầu năm 2023, cao gấp đôi so với mức tăng 5,99% của năm 2022.
Trong khi đó, số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến cuối tháng 9/2023, tổng tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế tại hệ thống ngân hàng đạt khoảng 12,68 triệu tỷ đồng, tăng gần 7,28% so với đầu năm và cao gần bằng mức tăng trưởng tiền gửi của cả năm 2022.
Như vậy, chỉ tính trong chưa đầy 3 tháng cuối năm 2023, tăng trưởng huy động vốn của các ngân hàng đã tăng 3,75 điểm %, tương đương mức tăng ròng gần 422.000 tỷ đồng. Bình quân cứ mỗi ngày trong quý IV/2023, người dân và doanh nghiệp lại mang thêm hơn 5.200 tỷ đồngđi gửi ngân hàng.
Số liệu từ Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, tính đến hết quý III/2023, lượng tiền gửi của dân cư đã tăng tổng cộng 583.494 tỷ đồng, tương đương mức tăng 9,95% so với cuối năm 2022. Đây là mức tăng trưởng tiền gửi 9 tháng cao nhất kể từ năm 2018.
Thông thường, khi lãi suất huy động giảm, lượng tiền gửi của dân cư và doanh nghiệp cũng giảm theo do phải cạnh tranh với nhiều kênh đầu tư khác như bất động sản, chứng khoán, vàng, tiền ảo… Tuy nhiên, đến năm 2023, trong khi thị trường chứng khoán kém hấp dẫn hơn, bất động sản chưa phục hồi, thị trường vàng biến động mạnh nhưng chỉ ghi nhận vào cuối năm... dòng tiền của nhà đầu tư đã chảy mạnh về kênh tiền gửi bất chấp xu hướng giảm lãi suất liên tục từ các nhà băng.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính - ngân hàng cho biết: “Dù lãi suất huy động tại các ngân hàng xuống thấp nhưng vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát trong năm, tức là người gửi tiền vẫn có lãi suất thực dương trên tiền gửi của mình”.
Đây là một trong những lý do dòng tiền gửi của người dân vẫn tìm đến ngân hàng bất chấp lãi suất đã giảm về vùng thấp nhất nhiều năm.
Tương tự tiền gửi dân cư, tính tới cuối quý III/2023, lượng tiền gửi của khối doanh nghiệp cũng đã tăng 276.856 tỷ đồng, tương đương mức tăng 4,65% so với cuối năm 2022 và cao gấp đôi tốc độ tăng cùng kỳ năm 2022.