Đó là những nhận định của các chuyên gia tài chính, tại Hội thảo “Làm sao để biết một trái phiếu ‘đắt’ hay ‘rẻ’?” do FiinGroup phối hợp cùng FiinRatings tổ chức ngày 15/8.
Đời sống phong phú của trái phiếu doanh nghiệp
Chia sẻ tại hội thảo, lãnh đạo FiinGroup cho biết, tại Việt Nam, đại bộ phận nhà đầu tư đã quen với khái niệm về sự “đắt” hay “rẻ”, “rủi ro” và “lợi nhuận” khi đầu tư vào cổ phiếu. Tuy nhiên, đối với trái phiếu doanh nghiệp, quá trình chỉ mới bắt đầu không chỉ với nhà đầu tư tổ chức mà đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân.
Khi đầu tư trái phiếu, các nhà đầu tư đã quen với khái niệm mua trái phiếu, nắm giữ và hưởng lãi suất. Lãi suất dễ hiểu và “thân thiện” với tất cả người dân. Tuy nhiên, nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân chưa quen với khái niệm đầu tư trái phiếu, tức là mua và bán trước khi trái phiếu đến hạn. Song song đó, với nhà đầu tư, việc ước lượng giá trái phiếu khi mua bán lưng chừng là vô cùng trừu tượng. Trong khi tại Việt Nam, các quỹ đầu tư chuyên nghiệp tham gia đầu tư trái phiếu doanh nghiệp còn hạn chế và ở quy mô nhỏ vì nhiều lý do khác nhau.
“Trái phiếu doanh nghiệp có một đời sống phong phú và đầy đủ trước khi nó “chết đi” - là khi đến hạn. Nó được trao tay và mỗi lần trao tay, trái phiếu lại kiến tạo lợi nhuận, hoặc thua lỗ. Khái niệm lợi suất được sinh ra trong bối cảnh đó. Đây không phải là khái niệm mới mẻ, nhưng nó chưa quen thuộc tại thị trường Việt Nam, với những nhà đầu tư cá nhân, không chuyên” - ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup cho hay.
Ông Nguyễn Quang Thuân, Chủ tịch FiinGroup chia sẻ tại hội thảo |
Theo lãnh đạo FiinGroup, lợi suất (yield) là ước tính lợi nhuận thực sự khi nắm giữ một tài sản, ví dụ trái phiếu. Cũng như lãi suất, lợi suất được tính theo năm, ví dụ 5%/năm, 7%/năm… Khi đo lường lợi suất trái phiếu, người ta giả định người nắm giữ trái phiếu sẽ nắm đến khi trái phiếu đến hạn, và được trả lãi. Lợi suất tới ngày đáo hạn (yield to maturity - YTM) được hiểu là lợi suất của một người khi sở hữu trái phiếu tại mức giá nhất định, và nắm giữ đến ngày đáo hạn. Cũng như lãi suất, YTM được tính theo năm.
“Mức giá của mỗi trái phiếu doanh nghiệp khi giao dịch phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trong đó cơ bản nhất là khả năng trả nợ của chính doanh nghiệp đó khi trái phiếu đáo hạn. Khả năng này, chúng tôi đo bằng cách xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đó” - Chủ tịch FiinGroup nói; đồng thời cho biết, để giúp nhà đầu tư có nhiều lựa chọn với trái phiếu doanh nghiệp, FiinGroup đã phát hành báo cáo “Đường cong lợi suất và lịch sử chậm trả trái phiếu” theo điểm xếp hạng tín nhiệm. Đây là báo cáo đầu tiên về các chỉ số này trên thị trường trái phiếu Việt Nam.
Trái phiếu ngân hàng sẽ vẫn là nhóm chủ đạo dẫn dắt thị trường
Cập nhật về tình hình của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, ông Trần Phú Việt, Trưởng phòng Nghiên cứu và phát triển sản phẩm, Bộ phận Dữ liệu tài chính, FiinGroup - cho biết, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp từ đầu năm đến ngày 13/8/2024 đạt 240.000 tỷ đồng, tăng 102% so với cùng kỳ năm ngoái, giúp quy mô lưu hành đạt 1,21 triệu tỷ đồng, tức khoảng 11,7% GDP năm 2023.
Chuyên gia của FiinRatings đánh giá, phát hành mới trên thị trường sơ cấp đang diễn ra chậm nhưng từng bước có chiều sâu hơn.
Về cơ cấu phát hành, trái phiếu ngân hàng đạt 136.500 tỷ đồng, chiếm 68% tổng giá trị phát hành; trái phiếu bất động sản đạt 43.200 tỷ đồng, chiếm 21,54%.
Lãi suất danh nghĩa bình quân huy động ở mức 7,47% trong 8 tháng 2024, giảm 66 điểm so với mức bình quân 8,13% của năm 2023. Kỳ hạn bình quân ở mức 3,8 năm cho 8 tháng 2024 và giảm so với mức bình quân 4,7 năm của 2023.
Số dư trái phiếu (cả gốc và lãi) đến hạn trong năm 2024 ở mức 315.000 tỷ đồng và năm 2025 đạt đỉnh ở mức 334.000 tỷ đồng. Riêng trái phiếu bất động sản, số dư đến hạn năm 2024 hiện ở mức 60.000 tỷ đồng và năm 2025 ước tính ở mức 135.000 tỷ đồng.
Hội thảo “Làm sao để biết một trái phiếu ‘đắt’ hay ‘rẻ’?” |
Cũng theo ông Trần Phú Việt, tình hình chậm trả đã giảm khá nhiều so với đỉnh điểm năm 2023, đặc biệt là trái phiếu bất động sản, do các nhà đầu tư và tổ chức phát hành đã chủ động tái cơ cấu nợ trái phiếu.
Dự báo về triển vọng thị trường, chuyên gia của FiinGroup nhận định, trong thời gian tới, trái phiếu ngân hàng sẽ vẫn là nhóm chủ đạo dẫn dắt thị trường, dự kiến chiếm khoảng 70% giá trị phát hành nửa cuối năm 2024. Trong khi đó, trái phiếu bất động sản bắt đầu hồi phục nhờ một số có tiến độ pháp lý và trái phiếu hạ tầng có dấu hiệu khởi sắc.
“Lãi suất vẫn cơ bản trên nền thấp nhưng nhiều tổ chức phát hành đang cân nhắc sử dụng vay dài hạn ngân hàng hay phát hành trái phiếu cho nhà đầu tư phi ngân hàng. Bên cạnh đó, thị trường đang mong đợi hỗ trợ chính sách từ Ngân hàng Nhà nước trong việc cấp phép cho các ngân hàng cung cấp dịch vụ quản lý tài sản đảm bảo” - ông Trần Phú Việt lưu ý.
Tại báo cáo nghiên cứu “Đường cong lợi suất và lịch sử chậm trả trái phiếu theo điểm xếp hạng tín nhiệm” được công bố trước đó, FiinRatings cũng nhận định, xu hướng chênh lệch lợi suất giữa trái phiếu ngân hàng và lãi suất tiền gửi dao động trong khoảng 2,0 - 2,5% tùy theo kỳ hạn.
Trong bối cảnh mặt bằng lãi suất huy động của các ngân hàng đang ở mức thấp (tương đương với thời điểm COVID-19), trái phiếu ngân hàng có thể là một kênh đầu tư để nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư tổ chức có thể nhận được lợi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi, với thanh khoản tốt và sự đa dạng về các sự lựa chọn về kỳ hạn và lợi suất.
Mặt khác, trên thị trường thứ cấp, theo thống kê của FiinRatings, thanh khoản bình quân từ đầu năm 2024 đến nay đạt 4.300 tỷ đồng/ngày, trong đó 86,68% là từ trái phiếu riêng lẻ. Phần lớn giao dịch là của bank-bonds, chiếm 50,36% và tập trung vào nhóm kỳ hạn giao dịch còn lại trong khoảng từ 1-3 năm (1,66 năm).
Về giá trái phiếu, nhiều trái phiếu có giá sạch (giá không gồm lãi lũy kế) thấp hơn mệnh giá dẫn đến lợi suất đầu tư (YTM) thấp hơn hoặc cao hơn so với lãi suất danh nghĩa ban đầu. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng cho không chỉ thị trường sơ cấp mà cả thị trường thứ cấp (làm cơ sở tham chiếu cho việc xác định lãi suất phát hành).
Giao dịch mua lại vẫn diễn ra sôi động, một phần do hoạt động cơ cấu lại kỳ hạn và lãi suất của các tổ chức phát hành, một phần do thực hiện giảm áp lực dư nợ trái phiếu hoặc tái cơ cấu nợ trái phiếu của các doanh nghiệp.
“Chúng tôi kỳ vọng sẽ có cải thiện về thanh khoản do sự cải thiện về minh bạch thông tin và nhu cầu kinh doanh kỳ hạn tại Việt Nam” - ông Trần Phú Việt cho biết.
Cũng tại báo cáo nghiên cứu “Đường cong lợi suất và lịch sử chậm trả trái phiếu theo điểm xếp hạng tín nhiệm”, FiinRatings đã lưu ý, những trái phiếu ngân hàng có thanh khoản cao nhất thường là các trái phiếu có kỳ hạn còn lại khoảng 2 - 3 năm, với kỳ hạn gốc khoảng 5 - 7 năm. Việc mua lại trước hạn trái phiếu vừa hỗ trợ ngân hàng không phải khấu trừ vốn cấp 2 (Thông tư 41/2016/NHNN), đồng thời có thêm dư địa phát hành trái phiếu mới có kỳ hạn trên 5 năm để bổ sung nguồn vốn cần thiết nhằm đáp ứng quy định về an toàn vốn.