Thúc đẩy hợp tác Việt Nam- Pháp trong lĩnh vực kinh tế ASEAN đánh giá cao đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế |
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước đến nay, nhằm đảm bảo cuộc sống cho Nhân dân, Đảng ta không ngừng đổi mới, sáng tạo trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo trên lĩnh vực kinh tế. Đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được định hình rõ nét và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trong thời gian tới, để thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế nhanh, bền vững trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh: “Chiến lược phát triển tổng thể của đất nước ta là đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Để hiện thực hóa được chủ trương này, cùng với việc đổi mới phương thức lãnh đạo ở các lĩnh vực khác, Đảng ta phải tiếp tục đổi mới mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra ở trong nước và quốc tế.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy Đường của Công ty Cổ phần Đường Kon Tum. Ảnh: TTXVN. |
Nội dung cơ bản của phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế
Một là, Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua đường lối, chủ trương. Trong lịch sử cũng như tình hình thực tiễn, để triển khai phương thức lãnh đạo nói chung, lĩnh vực kinh tế nói riêng Đảng đều thông qua cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận… đặt ra tầm nhìn phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ dài và từng giai đoạn 5 năm, 10 năm. Với tầm nhìn xuyên suốt từ lịch sử cho đến hiện tại, tinh thần học hỏi kế thừa có chọn lọc, Đảng xác nhận lý luận khoa học là tiền đề, cơ sở để xây dựng đường lối, chính sách đúng. Trên cơ sở của lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng đã sáng tạo và áp dụng vào thực tiễn Việt Nam những nguyên tắc và phương pháp phù hợp. Đồng thời, Đảng luôn quan tâm và học hỏi từ kinh nghiệm của các quốc gia khác, đặc biệt là những nước đã thành công trong việc phát triển kinh tế. Những bài học quý báu đó giúp Đảng cải thiện và tối ưu hóa chiến lược kinh tế, từ đó đưa Việt Nam trên con đường phát triển bền vững. Tại Đại hội VI, Đảng ta xác định: “Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế”.
Trong thời đại kinh tế thị trường, Đảng đã triển khai nhiều chương trình cục bộ, đổi mới tư duy, tăng cường học hỏi, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm… đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống các cơ quan tư vấn khoa học, với đội ngũ chuyên gia giỏi, am hiểu sâu sắc các lĩnh vực, giúp các cơ quan lãnh đạo của nhằm tham mưu cho Đảng và Nhà nước ban hành quyết sách kinh tế đúng đắn. Đồng thời, xây dựng hệ thống thông tin kinh tế - xã hội trong và ngoài nước phục vụ các cấp lãnh đạo, nhất là cấp vĩ mô, bảo đảm kịp thời, chính xác, toàn diện, thiết thực và an toàn.
Hai là, lãnh đạo việc phát triển kinh tế thông qua kế hoạch, chương trình hành động cụ thể qua từng kỳ đại hội.
Trải qua nhiều kỳ đại hội Đảng tổng kết những thành tựu đạt được, đúc rút kinh nghiệm và đề ra kế hoạch phát triển kinh tế cụ thể, bám sát thực tiễn định hướng quá trình đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là đại hội đổi mới, trong đó trước tiên là đổi mới tư duy kinh tế. Thực hiện ba chương trình kinh tế bao gồm chương trình lương thực, thực phẩm; chương trình hàng tiêu dùng; chương trình hàng xuất khẩu. Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đề ra chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế của giai đoạn 1996-2000 là: Tập trung sức cho mục tiêu phát triển, đến năm 2000, GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 1990. Phát triển các ngành công nghiệp, chú trọng trước hết công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu… Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu đưa đất nước sớm ra khỏi tình trạng nước kém phát triển. Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiến hành bổ sung, phát triển Cương lĩnh, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và trong đó nổi bật là quyết định đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, hội nhập quốc tế.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng đã đặt ra mục tiêu tổng quát về phát triển kinh tế: Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội XIII, Đảng chủ trương đẩy mạnh cách mạng khoa học công nghệ 4.0, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội.
Ba là, lãnh đạo kinh tế thông qua tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện, tăng cường kiểm tra, giám sát.
Công tác tuyên truyền của Đảng mang đến sự quan trọng to lớn trong việc lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc gia. Để đạt được điều này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tham gia xây dựng và tuân thủ đường lối, chủ trương của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước. Điều quan trọng là đảm bảo rằng những quyết sách này thực sự phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm tra, giám sát và tham gia vào các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Thông qua công tác tuyên truyền, Đảng cũng thúc đẩy sự hiểu biết rõ hơn của nhân dân về lợi ích của việc thực hiện chủ trương Đảng và khuyến khích họ tích cực tham gia vào thành công của những chủ trương này. Đảng cũng lãnh đạo các tổ chức quần chúng nhân dân, cơ quan báo chí và văn học, nghệ thuật để tôn vinh và khuyến khích những hành động tích cực trong lĩnh vực kinh tế, đề cao những doanh nhân xuất sắc có đóng góp đáng kể cho xã hội. Đồng thời, Đảng cũng phát hiện và chỉ trích những tiêu cực, đặc biệt là tham nhũng, lãng phí và các hành vi không nhân đạo trong quá trình sản xuất, kinh doanh, và trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, công tác tư tưởng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu và phát triển lý luận. Điều này đóng góp vào việc xây dựng và hoàn thiện đường lối, chủ trương, và kế hoạch phát triển kinh tế trong cả tương lai ngắn hạn và dài hạn.
Bốn là, lãnh đạo kinh tế thông qua các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế.
Trong lãnh đạo kinh tế, Đảng đã thực hiện xây dựng các tổ chức đảng và phát triển đội ngũ đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sản xuất và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tùy thuộc vào tính chất của từng thành phần kinh tế, Đảng đã quy định chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức cơ sở đảng trong từng lĩnh vực kinh tế đó. Các tổ chức đảng và đảng viên đã trực tiếp thấu hiểu và triển khai các chỉ thị và nghị quyết của Đảng, thực hiện công tác chính trị tư tưởng trong cơ quan và doanh nghiệp. Bằng trí tuệ và sức mạnh đoàn kết của tổ chức đảng, cùng với sự gương mẫu của đội ngũ đảng viên, các tổ chức đảng đã lãnh đạo các tổ chức quần chúng trong việc tuân thủ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời chống lại tham nhũng, lãng phí và vi phạm các quy định của Đảng. Chống tham nhũng, đặc biệt là tham nhũng trong lĩnh vực kinh tế, là một nhiệm vụ quan trọng của toàn Đảng, Nhà nước và nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một trong những khó khăn lớn nhất của nhiệm vụ quan trọng này là việc đấu tranh chống lại những đảng viên giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý quan trọng trên các lĩnh vực, ngành nghề và cấp bậc, khi họ sa vào vòng xoáy tệ nạn tham nhũng. Đây là một trách nhiệm cần được toàn Đảng và Nhà nước đồng lòng đối phó, trong đó cả việc phát huy vai trò quan trọng của Nhân dân.
Năm là, lãnh đạo bằng công tác cán bộ trên lĩnh vực lãnh đạo, quản lý nền kinh tế.
Đảng đã thực hiện vai trò lãnh đạo bằng công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ và công chức có chất lượng trong hệ thống nhà nước, đặc biệt là tập trung vào việc phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong lĩnh vực kinh tế. Đảng đã giới thiệu những đảng viên ưu tú, sở hữu năng lực và phẩm chất, tham gia hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị và tăng cường trách nhiệm cá nhân, đặc biệt là đối với những người đứng đầu. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Đảng phải có biện pháp xử lý và đề xuất bãi nhiệm những đảng viên là cán bộ đảm nhiệm các trọng trách trong cơ quan nhà nước nếu họ không tuân thủ đúng đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước, hoặc có liên quan đến tham nhũng và lãng phí. Các tổ chức đảng giới thiệu cán bộ để đề bạt và đảm nhiệm chức vụ quản lý trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế nhà nước và các đơn vị kinh tế có sở hữu cổ phần của Nhà nước theo quyền hạn được phân cấp quản lý.
Ngoài việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý như đã nêu, Đảng cũng chịu trách nhiệm xây dựng đội ngũ chuyên gia, những người cung cấp thông tin và hỗ trợ cho các cơ quan lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước trong hoạt động kinh tế. Đồng thời, Đảng phải đề ra chủ trương và kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo để chuẩn bị nguồn nhân lực cho tất cả các thành phần kinh tế.
Cơ chế lãnh đạo tập thể trong từng cấp ủy đảng (từ đại hội, cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng) và cá nhân phụ trách (bao gồm đảng viên, cấp ủy viên, bí thư, phó bí thư cấp ủy, bí thư đảng đoàn, ban cán sự đảng) cần được cụ thể hóa cho từng thành viên ủy viên, đảng viên hoạt động trong các tổ chức chính quyền và các tổ chức kinh tế của Nhà nước. Việc xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của mỗi ủy viên cấp, đảng viên và đặc biệt là những chức danh lãnh đạo và quản lý kinh tế là cơ sở để cán bộ, đảng viên và nhân dân tham gia đánh giá và định giá hiệu quả hoạt động lãnh đạo và quản lý kinh tế một cách đều đặn và có hiệu quả.
Một số kết quả đạt được từ quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế trong những năm qua
Trong những năm qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 30-7-2007, về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị. Đảng ta đã tiến hành đổi mới phương thức lãnh đạo trên mọi lĩnh vực, trong đó tập trung đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực kinh tế. Vì thế, trong lĩnh vực lĩnh vực kinh tế của Việt Nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực:
Một là, nền kinh tế thoát khủng hoảng tăng trưởng vượt bậc. Sự nghiệp đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 10 năm 1990-2000, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,5%.
Giai đoạn 2006-2010, nền kinh tế nước ta vượt qua nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng nhanh, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%.
Quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 đạt 101,6 tỷ USD (gấp 3,26 lần so với năm 2000). Sang đến giai đoạn 2011-2020, kinh tế vĩ mô duy trì ổn định vững chắc, lạm phát được kiểm soát và duy trì ở mức thấp tạo môi trường và động lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn 2011-2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt bình quân 5,9%/năm; giai đoạn 2016-2019 ước đạt 6,8%/năm. Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất của khu vực và IMF đánh giá Việt Nam nằm trong Top 20 nền kinh tế đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019.
Đáng chú ý, năm 2020, do tác động của đại dịch COVID-19, nhiều nước trên thế giới đã rơi vào suy thoái nhưng theo đánh giá của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, kết thúc năm 2020, Việt Nam đã đạt được “mục tiêu kép” trong phòng, chống COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Tạp chí The Economist tháng 8-2020 đã xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới.
Thu nhập bình quân đầu người/năm khu vực nông thôn năm 2018 tăng 2,78 lần so với năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm nhanh từ 17,35% năm 2010 xuống còn khoảng 5,9% năm 2019, khoảng cách phát triển giữa nông thôn - đô thị từng bước được thu hẹp. Cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn có sự chuyển dịch tích cực, công nghiệp và dịch vụ nông thôn tăng trưởng nhanh. Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội giảm còn khoảng 38,1% năm 2018, thu nhập bình quân từ hoạt động phi nông nghiệp ngày càng tăng, chiếm 78% tổng thu nhập của hộ nông thôn năm 2019.
Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng ổn định.
Hai là, các ngành trong lĩnh vực kinh tế đạt được nhiều thành tựu. Ngành công nghiệp và xây dựng duy trì tốc độ tăng trưởng khá liên tục, tốc độ triển khai ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ được cải thiện. Sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và chất lượng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu, Tính chung năm 2021, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 336,25 tỷ USD, tăng 19% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 88,71 tỷ USD, tăng 13,4%, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 247,54 tỷ USD, tăng 21,1%, chiếm 73,6%; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao. Khu vực nông nghiệp phát triển khá ổn định; Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn có sự chuyển biến quan trọng, từ lúc cả nước còn thiếu ăn, hiện nay trở thành nước xuất khẩu gạo với khối lượng lớn, xuất khẩu gạo tháng 4-2021 đạt 700 nghìn tấn, đem về 362 triệu USD. Lũy kế 4 tháng đầu năm, xuất khẩu gạo đạt 1,9 triệu tấn với giá trị 1,01 tỷ USD, giảm 10,8% về khối lượng nhưng tăng 1,2% về giá trị so với cùng kỳ năm 2020, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su, hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên quốc gia và bảo vệ môi trường gắn với yêu cầu phát triển bền vững được quan tâm và đem lại kết quả bước đầu. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển, nhất là hạ tầng giao thông, điện, thông tin, viễn thông, thủy lợi, hạ tầng đô thị, giáo dục, y tế. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ cao, đã tạo những tiền đề để bước đầu chuyển sang xây dựng kinh tế tri thức.
Ba là, hợp tác song phương, đa phương diễn ra sâu rộng. Cho đến nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với 224 đối tác, trong đó có hơn 70 nước là thị trường xuất khẩu của ta; có quan hệ với hơn 500 tổ chức quốc tế; 71 nước công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam. Đặc biệt, với việc tham gia 17 hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương (15 FTA đã ký kết và 2 FTA đang đàm phán), Việt Nam trở thành tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự do rộng lớn, chiếm gần 90% GDP thế giới.
Trong số các thành tựu hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, nổi bật là việc thúc đẩy ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), phê chuẩn Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), và việc thúc đẩy ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP). Ngoài ra, Việt Nam đã đảm nhận vai trò Chủ tịch ASEAN trong năm 2020, góp phần thúc đẩy việc triển khai Cộng đồng kinh tế ASEAN và liên kết kinh tế giữa ASEAN với các đối tác. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, sự tập trung hàng đầu của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế là thực hiện và tận dụng tối đa các cơ hội từ các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và các hiệp định của ASEAN với các đối tác, nhằm phục hồi và phát triển kinh tế. Đồng thời, chúng ta cũng đang tăng cường sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng trong việc triển khai cam kết, đề xuất giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và ngành hàng, cũng như hỗ trợ doanh nghiệp trong phòng vệ thương mại.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực kinh tế của Đảng còn một số bất cập, thiếu sót nên nền kinh tế ở còn một số khuyết điểm cần khắc phục như: Chủ trương, đường lối có nhiều điểm chưa thực sự chưa bám sát thực tiễn, chưa bắt kịp xu thế hiện đại đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghệ 4.0; hệ thống pháp luật kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chồng chéo, thiếu thống nhất… gây bất cập cho chủ thể hoạt động sản xuất, kinh doanh; công tác quản lý nhân lực còn nhiều hạn chế, "thừa thầy thiếu thợ" diễn ra phổ biến, quy mô quản lý nhỏ lẻ chưa có tầm nhìn khu vực và quốc tế, chưa có đủ hình thức khen thưởng, khích lệ, tuyên truyền vận động đảng viên tham gia sâu và sát các chương trình kinh tế tại địa phương; chương trình thúc đẩy hợp tác song phương đa phương tuy nhiều nhưng chưa hiệu quả, chưa có công tác kiểm soát quan hệ hợp tác thực tiễn dẫn đến nhiều mặt hàng, lĩnh vực xuất khẩu vẫn bị đánh thuế rất cao, từ chối tại một số thị trường đã ký hợp tác xuất khẩu như châu Âu và châu Mỹ.
Một số giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế đáp ứng yêu cầu đặt ra trong tình hình hiện nay
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế là yêu cầu tất yếu đặt ra trong bối cảnh hiện nay. Luôn bám sát thực tiễn nhằm đưa ra chủ trương, đường lối sáng tạo, phù hợp nhằm đưa nền kinh tế hội nhập và phát triển và góp phần củng cố vị trí chính trị của Đảng. Vì thế, trong thời gian tới, chúng ta tiếp tục phải tiếp tục tăng cường đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế, tập trung ở một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và tích cực triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Trong đó, đẩy mạnh việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Khi đổi mới phương thức lãnh đạo ở các lĩnh vực khác sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiếp tục hoàn thiện mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; công tác phòng, chống tham nhũng trong kinh tế được đẩy mạnh; đội ngũ lãnh đạo, quản lý kinh tế được bố trí, sử dụng hiệu quả;…
Hai là, phát huy vai trò của Nhân dân trong quá trình phát triển nền kinh tế. Nhân dân là là chủ thể, là nhân tố quan trọng nhất trong các phong trào kinh tế, tiêu biểu như: Phong trào nông thôn mới, phong trào mỗi làng một sản phẩm, trí thức trẻ và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư,… Đảng ta phải hướng dẫn người dân chủ động phát triển nền kinh tế từ nông thôn đến thành thị, thống nhất một lòng vì quốc gia thịnh vượng. Các chính sách, chủ trương khuyến khích nền kinh tế tư nhân nội quốc phát triển, cân nhắc giảm thuế đối với sản phẩm quốc nội, đẩy mạnh các chương trình hợp tác doanh nghiệp - doanh nghiệp, cá nhân - cá nhân, cá thể, hộ kinh doanh lớn, vừa, nhỏ tạo mối quan hệ gắn kết, học học và phát triển.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo đối với lĩnh vực kinh tế phải bám sát thực tiễn. Tiến hành đổi mới toàn diện và đồng bộ trên mọi lĩnh vực của Đảng phải bám sát thực tế. Có vậy, đường lối của Đảng mới luôn chủ động, không ngừng sáng tạo, vượt qua tình trạng bảo thủ, trì trệ và không bỏ lỡ cơ hội phát triển, hội nhập. Trong thời gian tới, triển khai các phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực kinh tế cần tiếp tục bám sát yêu cầu thực tiễn đặt ra, cụ thể là: Cần điều chỉnh và bổ sung đường lối, chính sách lớn cho phù hợp, không gây trở ngại cho sự phát triển; luôn bám sát và căn cứ vào tình hình quốc tế và trong nước để có dự báo sát ở tầm chiến lược và trước mắt để có bước đi và hành động phù hợp; bám sát thực tiễn để điều chỉnh quy định, nhất là trong các bộ luật, luật chuyên ngành còn chồng chéo, thiếu thống nhất,… nhằm tháo gỡ điểm tắc, điểm nghẽn của nền kinh tế.
Bốn là, xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ lãnh đạo, quản lý vững mạnh.Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu cho Đảng các cấp. Ngoài ra, Đảng tiếp tục xây dựng một đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực kinh tế các cấp có đạo đức và năng lực chuyên môn cao, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, với phẩm chất, năng lực và uy tín tương xứng với nhiệm vụ thực tiễn đặt ra. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong lĩnh vực kinh tế phải có tinh thần đổi mới, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung. Có vậy, nền kinh tế của Việt Nam mới phát triển, bền vững và có bước đột phá mạnh mẽ trong thời gian tới.