Bước đi chiến lược để ngành nông sản tận dụng lợi thế của Hiệp định RCEP Tận dụng RCEP trong ngành sản xuất điện tử công nghệ cao Tận dụng RCEP để gia tăng hàng hóa, thương hiệu Việt tại Indonesia |
RCEP là "mắt xích" quan trọng
Các chuyên gia kinh tế nhận định, lợi ích kinh tế mà một Hiệp định thương mại tự do (FTA) mang lại cần được đánh giá tổng thể trên nhiều phương diện như quy mô hiệp định, các nghĩa vụ ràng buộc...nhưng trực tiếp nhất vẫn là mức độ cam kết.
Thực tế hiện nay, Việt Nam đã và đang tham gia 19 Hiệp định thương mại song phương và đa phương, trong đó có 16 hiệp định đã ký kết chính thức và 3 hiệp định đang tiến hành đàm phán, đây được đánh giá là cơ hội rất lớn.
Các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) được xây dựng trên cơ sở các cam kết của Việt Nam trong WTO và các hiệp định FTA giữa ASEAN với từng đối tác ngoại khối (FTA ASEAN+) mà Việt Nam đã cùng ASEAN tham gia.
Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (WB), việc thực thi Hiệp định RCEP có thể giúp tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của Việt Nam tăng thêm 0,4% đến năm 2030 nếu xét lợi ích trực tiếp, có thể lên đến 1% nếu có tính đến lợi ích gián tiếp từ cải cách thể chế. Với Hiệp định RCEP, khi được cả 15 thành viên thực thi, sẽ tạo nên một thị trường lớn với quy mô 2,2 tỷ người tiêu dùng, chiếm khoảng 30% dân số thế giới, với GDP khoảng 27 nghìn tỷ USD, chiếm khoảng 30% GDP toàn cầu và sẽ trở thành khu vực thương mại tự do lớn nhất trên thế giới.
Đồng thời, với các cam kết về mở cửa thị trường trong lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ và đầu tư và hài hòa hóa quy tắc xuất xứ giữa tất cả các bên tham gia cũng như tăng cường các biện pháp tạo thuận lợi thương mại, việc thiết lập hiệp định này sẽ tạo cơ hội để phát triển các chuỗi cung ứng mới trong khu vực.
Hiệp định RCEP hình thành thị trường xuất khẩu ổn định dài hạn cho Việt Nam - Ảnh minh họa |
Về cam kết trong lĩnh vực mở cửa thị trường, theo Hiệp định RCEP, Việt Nam không cam kết cao hơn so với các FTA ASEAN+, tức là mức độ mở cửa thị trường thấp hơn so với cam kết trong các Hiệp định Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định RCEP được xây dựng phù hợp với trình độ phát triển của tất cả các nước tham gia, đặc biệt là phù hợp với cả một số nước ASEAN vẫn còn là nước kém phát triển.
Mặc dù không gian kinh tế rộng hơn, dân số lớn hơn nhưng đồng thời Hiệp định RCEP cũng có nhiều linh hoạt cho các nước tham gia hơn. Các nước tham gia RCEP cũng xác định đây là bước đi ban đầu, hướng đến các mức độ hợp tác cao hơn khi các nước đã sẵn sàng. Bên cạnh các cam kết trong các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, Hiệp định RCEP có cam kết trong một số lĩnh vực mới như: Thương mại điện tử, chính sách cạnh tranh, mua sắm của Chính phủ với mức độ thấp hơn cam kết trong các Hiệp định CPTPP hay EVFTA.
Ở Việt Nam, nhìn chung, để đạt được mức độ cam kết hài hòa trong Hiệp định RCEP, có cao hơn các FTA ASEAN+ hiện có nhưng thấp hơn các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia. Bên cạnh đó, các vấn đề về quy tắc xuất xứ để hàng hóa xuất khẩu được hưởng ưu đãi thuế quan tại RCEP là một thuận lợi lớn đối với Việt Nam.
Về vấn đề này, Hiệp định RCEP cho phép các nước thành viên áp dụng nguyên tắc cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ trong toàn khối. Theo đó, doanh nghiệp Việt Nam có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ không những từ các nước ASEAN mà còn có thể sử dụng nguyên liệu có xuất xứ từ các nước đối tác ASEAN như Úc, New Zealand, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Các chuyên gia nhận định, đây được coi điểm mở rộng hơn so với các FTA ASEAN+1, giúp doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng nguồn nguyên liệu đa dạng trong toàn khối RCEP để tăng cường khả năng xuất khẩu sang các nước đối tác trong khối.
Cùng với đó, ngay khi thực thi Hiệp định RCEP, ngoài việc áp dụng cộng gộp nguyên liệu có xuất xứ, các nước thành viên sẽ tiếp tục nghiên cứu và thảo luận về tính khả thi của cộng gộp toàn phần, là quy tắc xuất xứ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể từng bước tham gia chuỗi cung ứng khu vực (tương tự như quy tắc xuất xứ trong Hiệp định CPTPP).
Bên cạnh đó, chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong Hiệp định RCEP sẽ đa dạng hơn so với các FTA ASEAN+1. Cụ thể, doanh nghiệp có thể áp dụng 3 hình thức chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hoá như sau: Một là, giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) được cấp bởi các tổ chức cấp; hai là, doanh nghiệp đủ điều kiện được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá và ba là, bất kỳ doanh nghiệp có thể được phép tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
Việc cho phép doanh nghiệp lựa chọn các thủ tục cấp phép chứng nhận xuất xứ đa dạng như vậy sẽ tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc giảm thiểu thời gian xin cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) truyền thống, cắt giảm chi phí giao dịch, và chủ động hơn trong việc phát hành hóa đơn thương mại.
Với những đặc điểm này, Hiệp định RCEP đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu, giúp thúc đẩy hơn nữa phát triển kinh tế của các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam và các nước đối tác.
Cũng từ đó, Hiệp định RCEP sẽ mở thêm cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào các chuỗi giá trị mới trong khu vực và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ mở ra cơ hội mới cho các sản phẩm từ các lĩnh vực nổi bật như viễn thông, công nghệ thông tin, dệt may, giày dép và nông nghiệp.
Đẩy mạnh thông tin thị trường
Để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam sớm tiếp cận và khai thác tối ưu những cơ hội, thuận lợi mà Hiệp định RCEP đem lại, Bộ Công Thương đã chuẩn bị lộ trình triển khai các kế hoạch nhằm tuyên truyền, phổ biến Hiệp định đến các đơn vị, tổ chức có liên quan và các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Bộ Công Thương đã xây dựng và chuẩn bị triển khai kế hoạch tuyên truyền, giới thiệu các thông tin về Hiệp định, xây dựng các buổi tập huấn bổ sung kiến thức về Hiệp định cho các tổ chức, doanh nghiệp trong nước; xây dựng các chương trình, hỗ trợ, nâng cao năng lực cạnh tranh và tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu cho các ngành hàng và dịch vụ mà ta có thế mạnh và tiềm năng.
Bên cạnh đó, nâng cao năng lực cung cấp thông tin của các đơn vị trong Bộ Công Thương, đặc biệt là hệ thống Thương vụ, trung tâm thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại, văn phòng Xúc tiến thương mại Việt Nam tại nước ngoài để cung cấp thông tin hiệu quả cho cộng đồng doanh nghiệp.
Đồng thời, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tiếp tục xây dựng các chương trình phát triển thị trường cho các mặt hàng xuất khẩu có tiềm năng và lợi thế của Việt Nam vào thị trường các nước RCEP; phát triển và hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật phù hợp với các cam kết quốc tế để hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp, sản phẩm Việt Nam và bảo vệ người tiêu dùng…
Cũng theo Bộ Công Thương, để thiết lập thị trường xuất khẩu ổn định, tận dụng tối đa cơ hội từ các Hiệp định FTA, ngoài điều kiện cần là các giải pháp đồng bộ từ Chính phủ, Bộ, ngành và các địa phương, sự chủ động và tích cực của doanh nghiệp mới là điều kiện đủ để hiện thực hóa các lợi ích và cơ hội mà các Hiệp định FTA mang lại.
Do đó, các doanh nghiệp, hiệp hội, người dân chủ động tìm hiểu thông tin về các Hiệp định FTA để nắm vững cam kết của Việt Nam và các thị trường đối tác quan tâm. Cần thay đổi tư duy kinh doanh trong bối cảnh mới, lấy sức ép về cạnh tranh là động lực để đổi mới và phát triển. Cùng với đó, chủ động tìm hướng hợp tác với các thị trường đối tác của Hiệp định để thu hút mạnh mẽ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam nhằm tận dụng hiệu quả nguồn vốn và việc chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn lớn.
Sáng kiến RCEP do ASEAN dẫn đầu nhằm tạo ra một khu vực thương mại tự do lớn nhất thế giới, xét về tổng GDP và quy mô thị trường. Tăng trưởng kinh tế của các nước thành viên RCEP chiếm gần 1/3 GDP toàn cầu, trong đó số lượng người đạt gần 1/3 dân số thế giới. |