Lãi suất ngân hàng hôm nay ngày 20/10/2023, theo khảo sát của phóng viên Vuasanca tại website của 34 ngân hàng có 3 ngân hàng công bố giảm lãi suất tiết kiệm, gồm: Vietcombank, Dong A Bank, SHB. Đáng chú ý, Vietcombank giảm mạnh lãi suất huy động, xuất hiện kỳ hạn về dưới 3%.
Cụ thể, Vietcombank vừa điều chỉnh giảm tiếp lãi suất huy động lần thứ 2 trong tháng 10 kể từ hôm nay. Kỳ hạn 1 - 2 tháng giảm tiếp 0,2 điểm phần trăm, chỉ còn 2,8%/năm. Đây là kỳ hạn tiền gửi duy nhất dưới 3%/năm.
Vietcombank cũng giảm 0,2 điểm phần trăm đối với tiền gửi kỳ hạn 3 - 5 tháng khi chỉ còn 3,1%/năm. Đối với các kỳ hạn tiền gửi từ 6 - 11 tháng, lãi suất cũng giảm 0,2 điểm phần trăm và chỉ còn 4,1%/năm. Cũng với mức giảm tương tự, Vietcombank đưa lãi suất các kỳ hạn từ 12 - 24 tháng về mức 5,1%/năm.
Vietcombank giảm mạnh lãi suất huy động, xuất hiện kỳ hạn về dưới 3% |
Trước động thái này của Vietcombank, 3 ngân hàng còn lại trong nhóm Big4 là Agribank, BIDV và VietinBank chưa có động thái mới. Do vậy, lãi suất huy động tại Vietcombank vốn đã thấp nhất thị trường nay lại càng thấp hơn.
Tương tự Dong A Bank cũng điều chỉnh giảm lãi suất huy động với mức giảm 0,2 điểm phần trăm đối với các kỳ hạn tiền gửi từ 6 - 36 tháng. Đây cũng là lần thứ hai trong tháng 10 Dong A Bank thực hiện giảm lãi suất huy động. Theo đó, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 - 8 tháng hiện còn 5,5%/năm sau khi giảm. Lãi suất các kỳ hạn tiền gửi từ 9 - 11 tháng cũng giảm xuống còn 5,6%/năm. Kỳ hạn 12 tháng còn 5,85%/năm đồng thời chính thức rời mốc trên 6%/năm kể từ hôm nay.
Lãi suất huy động các kỳ hạn 18 - 36 tháng cũng giảm từ 6,05% xuống còn 5,85%/năm. Hiện chỉ còn duy nhất kỳ hạn tiết kiệm 13 tháng duy trì mức cao nhất là 6,1%/năm. Tuy nhiên, nhà băng này cho biết khách hàng gửi tiền kỳ hạn từ 13 tháng trở lên nếu chọn lĩnh lãi cuối kỳ, số tiền gửi từ 200 tỷ đồng trở lên sẽ được áp dụng mức lãi suất lên đến 8%/năm. Trong khi đó, lãi suất ngân hàng các kỳ hạn từ 1 - 5 tháng vẫn được giữ nguyên mức lãi suất cũ 4,5%/năm.
Cũng trong hôm nay (20/20) SHB tiếp tục hạ lãi suất huy động lần thứ 2 kể từ đầu tháng 10. Theo biểu lãi suất huy động trực tuyến khách hàng cá nhân, lãi suất ngân hàng các kỳ hạn đồng loạt giảm 0,1 điểm phần trăm. Cụ thể, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 1 tháng chỉ còn 3,8%/năm, kỳ hạn 2 tháng là 4%/năm, kỳ hạn 3 tháng là 4,1%/năm, kỳ hạn 4 tháng là 4,2%/năm, và kỳ hạn 5 tháng có lãi suất 4,3%/năm.
Ở các kỳ hạn dài hơn, SHB niêm yết lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 - 8 tháng ở mức 5,4%/năm, kỳ hạn 9 - 11 tháng là 5,6%/năm, kỳ hạn 12 tháng còn 5,8%/năm, và kỳ hạn 13 tháng là 5,9%/năm. Hiện chỉ còn các kỳ hạn tiền gửi từ 15 tháng trở lên được SHB niêm yết trên 6% dù lãi suất các kỳ hạn này đã giảm nhẹ 0,1 điểm phần trăm xuống còn 6,3%/năm.
Kể từ đầu tháng 10, đã có 22 ngân hàng giảm lãi suất huy động gồm: VIB, Sacombank, VietBank, SCB, VPBank, SHB, BIDV, VietinBank, HDBank, BaoViet Bank, Techcombank, SeABank, Viet A Bank, PG Bank, VietBank, Dong A Bank, Vietcombank, LPBank, Nam A Bank, CBBank, ACB và Bac A Bank.
Trong đó, Vietcombank, SHB, Dong A Bank, PG Bank, Nam A Bank, HDBank, VietBank, LPBank, Viet A Bank và Bac A Bank là những ngân hàng giảm lãi suất hai lần trong tháng này. Ngược lại, đã có hai ngân hàng tăng lãi suất huy động là GPBank và SeABank.
BIỂU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG CAO NHẤT NGÀY 20 THÁNG 10 (%/năm) | ||||||
NGÂN HÀNG | 1 THÁNG | 3 THÁNG | 6 THÁNG | 9 THÁNG | 12 THÁNG | 18 THÁNG |
PVCOMBANK | 4,25 | 4,25 | 6,4 | 6,4 | 6,5 | 6,8 |
NCB | 4,75 | 4,75 | 6,3 | 6,35 | 6,4 | 6,4 |
CBBANK | 4,2 | 4,3 | 6 | 6,1 | 6,3 | 6,4 |
VIET A BANK | 4,5 | 4,5 | 5,8 | 5,8 | 6,1 | 6,3 |
BAOVIETBANK | 4,4 | 4,75 | 5,8 | 5,9 | 6,1 | 6,4 |
OCEANBANK | 4,6 | 4,6 | 5,8 | 5,9 | 6,1 | 6,5 |
BAC A BANK | 4,55 | 4,55 | 5,75 | 5,8 | 5,9 | 6,1 |
BVBANK | 4,4 | 4,7 | 5,75 | 5,9 | 6,05 | 6,15 |
HDBANK | 4,05 | 4,05 | 5,7 | 5,5 | 5,9 | 6,5 |
SAIGONBANK | 3,6 | 4 | 5,7 | 5,7 | 5,9 | 5,9 |
VIETBANK | 4,55 | 4,55 | 5,6 | 5,7 | 5,9 | 6,6 |
DONG A BANK | 4,5 | 4,5 | 5,5 | 5,6 | 5,85 | 5,85 |
GPBANK | 4,25 | 4,25 | 5,45 | 5,55 | 5,65 | 5,75 |
SHB | 3,8 | 4,1 | 5,4 | 5,6 | 5,8 | 6,3 |
VIB | 4 | 4,25 | 5,4 | 5,4 | 6 | |
KIENLONGBANK | 4,75 | 4,75 | 5,4 | 5,6 | 5,7 | 6,4 |
SCB | 4,5 | 4,5 | 5,35 | 5,45 | 5,65 | 5,65 |
SACOMBANK | 3,7 | 3,9 | 5,3 | 5,6 | 6,2 | 6,4 |
OCB | 4,1 | 4,25 | 5,3 | 5,4 | 5,5 | 5,9 |
EXIMBANK | 4 | 4 | 5,2 | 5,5 | 5,6 | 5,8 |
PG BANK | 3,8 | 3,8 | 5,1 | 5,3 | 5,4 | 6,2 |
LPBANK | 3,8 | 4 | 5,1 | 5,2 | 5,6 | 6,4 |
MB | 3,5 | 3,8 | 5,1 | 5,2 | 5,4 | 6,1 |
VPBANK | 3,9 | 3,95 | 5 | 5 | 5,3 | 5,1 |
ACB | 3,5 | 3,7 | 5 | 5,1 | 5,5 | |
TPBANK | 3,8 | 4 | 5 | 5 | 5,55 | 6 |
MSB | 3,8 | 3,8 | 5 | 5,4 | 5,5 | 5,5 |
TECHCOMBANK | 3,55 | 3,75 | 4,95 | 5 | 5,35 | 5,35 |
SEABANK | 4 | 4 | 4,8 | 4,95 | 5,1 | 5,1 |
NAMA BANK | 4,65 | 4,65 | 4,9 | 5,2 | 5,7 | 6,1 |
ABBANK | 3,7 | 3,9 | 4,9 | 4,9 | 4,7 | 4,4 |
AGRIBANK | 3,4 | 3,85 | 4,7 | 4,7 | 5,5 | 5,5 |
VIETINBANK | 3,4 | 3,75 | 4,6 | 4,6 | 5,3 | 5,3 |
BIDV | 3,2 | 3,5 | 4,4 | 4,4 | 5,3 | 5,3 |
VIETCOMBANK | 2,8 | 3,1 | 4,1 | 4,1 | 5,1 | 5,1 |
Theo lãnh đạo một ngân hàng thương mại, ngành ngân hàng vẫn đang dư thừa thanh khoản, tức “thừa tiền”, dù sau cuộc họp gần nhất của Cục dự trữ liên bang mỹ, tính đến ngày 13/10, Ngân hàng Nhà nước đã có 17 phiên liên tiếp hút tiền về qua kênh tín phiếu, tổng cộng gần 206.000 tỷ đồng. Tín phiếu có kỳ hạn 28 ngày, lãi suất trong phiên đấu thầu 20.000 tỷ đồng ngày 13/10 là 0,95%/năm. Mức lãi suất này tuy cao so với các phiên đấu thầu đầu tiên, nhưng giảm so với mức 1,3%/năm ngày 4 - 5/10, cho thấy tình trạng dư thừa thanh khoản vẫn hiện hữu.
Thanh khoản dư thừa do huy động vốn tiếp tục tích cực, nhưng tín dụng tăng chậm, tính đến cuối tháng 9 đạt 6,92% so với đầu năm, trong khi cùng kỳ năm ngoái tăng 11,05% và mục tiêu cả năm là tăng 14%. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tại một số ngân hàng có sự phân hóa mạnh như BIDV đạt khoảng 7% (hạn mức được cấp cả năm là 14,5%), Vietcombank và VietinBank đạt khoảng 3% (hạn mức được cấp lần lượt là 15%, 14%), Techcombank đạt 11,85% (hạn mức được cấp là 14%), VIB đạt 3,96% (hạn mức được cấp là 14,25%)...
sau các đợt giảm lãi suất huy động kể từ tháng 3, lãi suất huy động bình quân của khối ngân hàng thương mại cổ phần có vốn nhà nước đã về mức tương đương giai đoạn dịch Covid-19 ở các kỳ hạn ngắn 1 - 3 tháng và kỳ hạn dài từ 12 tháng trở lên, nhưng vẫn cao hơn 0,45%/năm so với mặt bằng thấp của giai đoạn dịch bệnh ở các kỳ hạn 3 - 6 tháng. Đối với khối ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân, lãi suất huy động cao hơn từ 0,5 - 0,7%/năm đối với kỳ hạn 1 - 9 tháng và cao hơn từ 1,5 - 2,0%/năm ở các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
“Lãi suất huy động đã về vùng đáy và khó có thể giảm thêm trong quý IV/2023 khi lãi suất thực đang dần thu hẹp do lạm phát tăng lên, còn tín dụng có tăng tốc hay không trong bối cảnh hiện nay là điều khó dự đoán” - vị lãnh đạo nói.