Công Thương điện tử đã trao đổi nhanh với ông Raul Villaron, Phó Chủ tịch khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Embraer về những vẫn đề liên quan đến hồi phục và phát triển thị trường hàng không Việt Nam.
Ông Raul Villaron, Phó Chủ tịch khu vực châu Á - Thái Bình Dương Embraer (bên phải) và máy bay của Embraer sản xuất |
Được biết Embraer vừa công bố Sách trắng về hàng không khu vực? Cuốn sách này có tác dụng gì cho việc phát triển hàng không của Việt Nam trong nội địa và khu vực, thưa ông?
Bên cạnh buổi bay thử và trải nghiệm dòng máy bay phản lực mới - Embraer E190-E2 tại Việt Nam, chúng tôi đã công bố Sách trắng đưa ra các nhận định về tương lai của ngành hàng không Việt Nam với tiêu đề “Tiềm năng kết nối hàng không của Việt Nam”. Báo cáo bàn luận về tiềm năng của máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ, góp phần thúc đẩy phát triển kết nối hàng không trong và ngoài nước cho các hãng hàng không Việt Nam.
Trong năm 2022, chúng tôi đặc biệt muốn tập trung vào kết nối khu vực bởi đây là phân khúc đã và đang phát triển tốt ngay cả trong bối cảnh đại dịch. Trong thời kỳ bùng phát dịch trước đây, Việt Nam chủ yếu khai thác các chặng bay nội địa do việc đi lại quốc tế gặp nhiều hạn chế. Do đó, số lượng chuyến bay nội địa trong 6 tháng đầu năm 2021 có sự vượt trội hơn so với cùng kỳ năm 2019.
Bên cạnh đó, bản báo cáo cũng đề xuất các hướng ứng dụng máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ nhằm tối ưu phân bổ Ngân sách quốc gia trong giai đoạn phục hồi hậu đại dịch. Cải tạo và mở rộng đường băng nhằm đáp ứng điều kiện khai thác của các máy bay cỡ lớn đang là yêu cầu cấp thiết tại một số sân bay, tuy nhiên, việc đầu tư này sẽ cần nhiều thời gian cũng như nguồn kinh phí lớn. Do đó mẫu máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ giúp các hãng hàng không tối ưu nguồn nhiên liệu sử dụng và giảm chi phí vận hành.
Với những nghiên cứu của Embraer, theo ông những hạn chế còn tồn tại của ngành hàng không Việt Nam hiện nay là gì?
Là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất Đông Nam Á với dân số khoảng 100 triệu người, Việt Nam sẽ cần cải thiện năng lực hàng không để phục vụ được nhu cầu di chuyển tăng cao trong thời gian tới, dự kiến tăng đều theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,4%/năm trong giai đoạn từ 2021 đến 2030.
Hiện tại, các máy bay đang được khai thác tại Việt Nam chủ yếu là máy bay với sức chứa lớn từ 180 chỗ ngồi trở lên. Các dịch vụ hàng không cũng tập trung nhiều vào các tuyến bay chính (như Hà Nội – TP. Hồ Chí Minh và các tuyến bay đi Đà Nẵng, Phú Quốc, Nha Trang) để tận dụng tối đa sức chứa của những máy bay cỡ lớn.
Dòng máy bay này có kích thước quá lớn và không tối ưu để khai thác những thị trường khu vực với nhu cầu bay thấp hoặc trung bình. Ngay cả trước thời kỳ bùng phát dịch Covid, có tới 50% tổng số chuyến bay nội địa và nội vùng chở chưa tới tới 150 hành khách mỗi chuyến. Số lượng ghế trống đồng nghĩa với việc giảm doanh thu của các hãng hàng không, đồng thời tạo ra sự mất cân bằng giữa cung và cầu trong hàng không nói chung.
Sự mất cân bằng giữa sức chứa của máy bay và nhu cầu di chuyển của hành khách đã gây cản trở cho việc mở rộng các chặng bay quốc tế, chẳng hạn như Phú Quốc. Trong nỗ lực vận hành dòng máy bay thân hẹp cỡ lớn, một số đường bay mới tới Phú Quốc đã được đưa vào khai thác với tần suất từ một đến ba chuyến hàng tuần để tối ưu số lượng ghế của mỗi chuyến bay. Tuy nhiên, tần suất này không thể đáp ứng điều kiện khai thác các đường bay mới, nên đã bị loại bỏ sớm ngay sau khi được triển khai.
Là một nhà sản xuất tàu bay hàng đầu thế giới, Embraer có coi Việt Nam như là một thị trường mục tiêu hay không và kỳ vọng của hãng ở thị trường này trong thời gian tới là gì?
Trong tháng 4 vừa qua, chúng tôi đã tổ chức chuỗi các buổi bay thử và trải nghiệm trong 3 ngày cùng các đại diện trong ngành hàng không Việt Nam. Trong đó, một trong những mẫu máy bay phản lực mới nhất của chúng tôi, E190-E2, đã đi qua đa dạng các điểm đến như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Côn Đảo, thể hiện rằng dòng máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ là một lựa chọn hợp lý để phục vụ các sân bay khu vực, đặc biệt là các sân bay có nhiều đặc thù như đường băng ngắn và không thể tiếp nhận những loại tàu bay cỡ lớn. Với công suất đặc trưng, chúng tôi tin E190-E2 sẽ cải thiện khả năng kết nối hàng không nội địa, từ đó mang tới nhiều lợi ích cho khách hàng của chúng tôi - các hãng hàng không, cũng như cho nền kinh tế Việt Nam nói chung.
Hiện Embraer đã và đang hợp tác cùng hơn 80 hãng hàng không trên 50 quốc gia, và chúng tôi cũng rất mong có thể phát triển mối quan hệ hợp tác với các hãng hàng không Việt Nam. Hiện tại, dòng máy bay phản lực cỡ nhỏ E-Jets của chúng tôi đã mang tới các lợi ích cho Bamboo Airways, và chúng tôi hy vọng có thể mở rộng hơn nữa phạm vi hoạt động của mình tại Việt Nam.
Lợi thế cạnh tranh mà máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ của chúng tôi mang lại so với máy bay cỡ lớn chính là khả năng đáp ứng sức chứa phù hợp với nhu cầu, từ đó cải thiện hiệu suất công việc và tối ưu lợi nhuận cho các hãng hàng không. Ngoài ra, tàu bay cũng có những lợi điểm khác như khả năng tiết kiệm nhiên liệu, chống ồn tồi đa và khả năng vận hành tốt trên đường băng ngắn.
Embraer có thể hỗ trợ được gì cho khách hàng tại Việt Nam gia tăng hiệu quả khai thác nếu đầu tư dòng máy bay này cho các chặng bay nội địa và khu vực?
E190-E2 là máy bay phản lực dân dụng cỡ nhỏ mới của chúng tôi, được đưa vào hoạt động từ 2018. Với công nghệ tân tiến, đây là dòng máy bay có chi phí vận hành thấp nhất trong số tất cả các dòng máy bay cánh đơn. Chúng tôi hiểu rằng quản lý chi phí và nâng cao hiệu suất công việc là yếu tố tối quan trọng đối với các doanh nghiệp hàng không, đặc biệt trong bối cảnh giá nhiên liệu vẫn đang tăng cao như hiện nay, và E190-E2 chắc chắn sẽ giúp ích cho các hãng hàng không trong việc cải thiện những vấn đề này.
Embraer dự đoán mức tăng trưởng lưu lượng hàng không nội địa hàng năm, bao gồm các chuyến đi và đến Việt Nam, sẽ vào khoảng 12%/năm trong vòng 10 năm tới. Đây là tỷ lệ tăng trưởng kép theo năm cao nhất Đông Nam Á của ngành hàng không. Với dự đoán này, ngành hàng không Việt Nam cũng sẽ phục hồi hoàn toàn để hoạt động như trước đại dịch vào năm 2023. |