Bác Hồ với đồng bào dân tộc thiểu số - ảnh ST
CôngThương - Trong cái nắng dịu nhẹ đầu hè của Hà Nội, tôi đã tìm gặp Phó giáo sư, Tiến sĩ Phạm Ngọc Anh, người đã có hơn 50 công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, để tìm hiểu rõ hơn về mối quan hệ tình cảm khăng khít gắn bó thiêng liêng của Bác với đồng bào dân tộc và của đồng bảo với Bác.
Tiếp tôi trong căn phòng làm việc nhỏ tại Học viện Chính trị quốc gia, với giọng nói đặc trưng của người miền Trung, Tiến sĩ Phạm Ngọc Anh chia sẻ: Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ luôn luôn hướng về đồng bào dân tộc thiểu số với tình cảm chân thành. Đó không đơn thuần là tình cảm của một vị lãnh tụ quốc gia mà còn là sự tri ân của Bác với đồng bào trong những ngày đầu hoạt động cách mạng đầy khó khăn tại Việt Bắc, nhưng hơn cả đó là tình cảm của một con người – nhân cách với một cộng đồng người Việt. Có thể nói, hiếm có vị lãnh tụ nào trên thế giới lại luôn hướng lòng mình về các đồng bào dân tộc như Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng hiếm có dân tộc nào trên thế giới như Việt Nam lại dành cho vị lãnh tụ đáng kính của mình những tình cảm chân thành, thương yêu và kính trọng như thế.
Tiến sĩ Ngọc Anh nhấn mạnh: Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất của đất nước nhưng Người luôn ghi nhớ những tấm lòng, nghĩa cử cao đẹp của đồng bào dân tộc giúp đỡ cán bộ làm cách mạng, vì “Có những đồng bào nhịn ăn nhịn mặc, bán trâu bán ruộng để giúp chúng tôi làm cách mệnh”. Người khẳng định chính sự cưu mang giúp đỡ của đồng bào các dân tộc đã góp phần làm nên chiến thắng Thu đông tháng 10 năm 1947 và cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku ngày 19/4/1946 Người viết “...Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau no đói giúp nhau...”.
Trong chính sách đối với người dân tộc thiểu số, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo đến đời sống của đồng bào về cái ăn, cái mặc, chỗ ở, y tế, giáo dục... với mong muốn đồng bào có cuộc sống ấm no hơn, hạnh phúc hơn; mong miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng căn cứ địa cách mạng tiến kịp với cả nước. Đặc biệt trong công tác giáo dục, Người khuyến khích đồng bào phải tham gia học tập, tự đào tạo bồi dưỡng cán bộ lâu dài để phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, vì đồng bào dân tộc miền núi có những lợi thế nhất định trong việc khai thác tài nguyên khoáng sản, phát triển kinh tế rừng làm cơ sở cho việc phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, Người quan tâm đến xây dựng mối đại đoàn kết dân tộc, có quan hệ bình đẳng vì sự tiến bộ chung, loại bỏ tư tưởng vùng miền hay dân tộc này với dân tộc khác. Bằng những chỉ đạo cụ thể, Người luôn nhắc nhở cấp uỷ, chính quyền địa phương phải quan tâm phát triển kinh tế như xây dựng đường giao thông nông thôn, nối kết các thôn, buôn làng, phục vụ cho sản xuất, lưu thông hàng hoá; chăm lo đời sống tinh thần cho đồng bào nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình.
Tình cảm của bà con dân tộc đối với Bác cũng hết sức sâu sắc, chân thành. Từ góc độ là một nhà nghiên cứu, xin ông có thể nói rõ hơn về điều này? Tôi hỏi khi ông vừa dừng lại. Giọng ông Ngọc Anh trầm ấm: Đáp lại tình cảm và tấm lòng to lớn ấy của Người, đồng bào đã giành cho Người những tình cảm trân trọng yêu thương và thiêng liêng. Đồng bào đã thực hiện tốt những lời chỉ giáo của Bác, xích lại gần nhau nhằm củng cố căn cứ địa cách mạng, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, gắn với cộng đồng chung, tạo tiếng nói thống nhất trên trường quốc tế trong lĩnh vực lãnh thổ chủ quyền, chung lòng xây dựng quê hương đất nước phát triển ngày càng giàu đẹp, bền vững hơn. Có cả một dân tộc ở miền Trung đổi họ thành họ Hồ, ngay sau khi Bác mất, nhiều gia đình dân tộc đã lập bàn thờ treo ảnh Bác rất trang trọng trong nhà, họ làm thế để tỏ lòng biết ơn về người đã đấu tranh giành độc lập dân tộc, mang lại tự do, bình đẳng, mang lại cuộc sống ấm no cho đồng bào. Bây giờ nhiều khu vực họ còn xây dựng cả khu tưởng niệm, đền thờ Bác.
Ngày nay, Đảng và Nhà nước cũng đã xây dựng nhiều chính sách, chương trình cho đồng bào dân tộc cả nước, trong đó phải kể đến Chương trình 30a, 135... đã mang lại sự đổi thay cho đồng bào. Chắc chắn đó là thành quả của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với đồng bào dân tộc dựa trên mối quan hệ 2 chiều bền vững giữa Bác với đồng bào dân tộc và của đồng bào đối với Bác cho đến tận ngày hôm nay. Điều đó càng khẳng định ý nghĩa câu nói bất hủ của Người để lại cho các thế hệ con cháu Việt Nam: “Nước Việt Nam là một. Dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý ấy không bao giờ thay đổi”.