Công nhân xây dựng trên một công trường ở Trung quốc. Chương trình kích cầu trong cuộc khủng hoảng trước đây làm cho TQ lâm vào tình trạng nợ nần nặng nề.
CôngThương - Mùa thu năm 2008, phương Tây nhìn Trung Quốc với con mắt vừa ngạc nhiên vừa thán phục. Khi đó ngân hàng Lehman vừa mới lâm vào tình trạng phá sản, nền kinh tế thế giới đứng ven bờ vực thẳm, nhưng lãnh đạo ĐCS Trung Quốc tỏ ra rất cương quyết. Nội trong ít ngày, bộ máy Đảng vốn rất quan liêu, chậm chạp của Trung Quốc đã bất ngờ tung ra một chương trình phục hồi, phát triển kinh tế đầy bất ngờ. Nhà nước bơm một khoản tiền tương đương 586 tỷ đôla Mỹ cho nền kinh tế. Trung Quốc không bị sa vào tình trạng suy thoái, châu Âu và Mỹ được lợi vì cầu của Trung Quốc tăng cao.
"Tuy nhiên lần này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc không có mấy khoảng trống để hoạt động" ông Barry Eichengreen, chuyên gia kinh tế thuộc Đại học of California ở Berkeley lo ngại. Trung Quốc tuy vẫn đạt mức tăng trưởng trên 9% nhưng đang phải vật lộn với những hệ lụy muộn màng của gói kích cầu mấy năm trước và thanh khoản mở ra quá rộng. Trong tháng 7 /2011, lạm phát lên tới 6,5%, mức tăng cao nhất trong 3 năm qua. Hiện Ngân hàng TW Trung Quốc không có nhiều khả năng để nới lỏng chính sách tiền tệ đã bị thắt chặt gần đây cũng như giảm mức lãi suất chỉ đạo 6,56% .
Tỷ lệ nợ cao càng làm cho tình hình nghiêm trọng. Khoản nợ của các thành phố, tỉnh, huyện của Trung Quốc tích tụ trong quá trình thực hiện chương trình kích cầu đã lên đến mức từ 1,5 đến 2,1 nghìn tỷ đôla Mỹ. Theo số liệu chính thức thì tỷ lệ nợ chỉ khoảng 17 % tổng sản phẩm quốc nội. Tuy nhiên, theo chuyên gia của hãng phân tích có uy tín Dragonomics ở Bắc Kinh thì con số này thực chất là 89%, nghĩa là cao hơn cả tỷ lệ nợ của Bồ Đào Nha. Rolf Langhammer, phó chủ tịch Viện Kinh tế thế giới ở Kiel cho rằng, đầu tư của Trung Quốc ở nước ngoài có thể buộc phải giảm để cứu các địa phương và doanh nghiệp Nhà nước bị nợ lút đầu thoát khỏi tình trạng phá sản. “ Điều này trước hết sẽ là một đòn nặng nềgiáng vào nước Mỹ, bởi Trung Quốc hiện nắm giữ trái phiếu của Mỹ trị giá 1,260 nghìn tỷ Dollar.
Theo ngân hàng đầu tư (Investmentbank UBS) của Thụy sỹ thì từ năm 2008 đến 2010, tín dụng thuộc phạm vi ngân hàng Trung Quốc đã tăng từ 121 lên 180% tổng sản phẩm quốc nội. Chuyên gia phân tích Wang Tao của Investmentbank USB cảnh báo “mức tăng từ 35% đến điểm 40% trong thời gian 5 năm trong lịch sử luôn dẫn đến khủng hoảng".
Vì thế không có gì ngạc nhiên khi chính phủ cũng như cơ quan bảo vệ tiền tệ Trung Quốc thi hành mọi biện pháp để ngăn cản tiếp tục tăng lượng cho vay tín dụng. Trước mắt, các doanh nghiệp tư nhân hạng vừa của Trung Quốc trong quá khứ là động cơ tạo việc làm ở Trung Quốc nay hầu như không còn được vay tín dụng. Thành phố Wen-zhou, cái nôi của kinh tế tư nhân ở vùng duyên hải phía đông, có tới 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ bị ảnh hưởng. Nhiều doanh nghiệp buộc phải vay chui với lãi suất cao, có khi lên đến 60%; ngày càng có nhiều doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Nếu tình trạng khủng hoảng ở Mỹ và EU nghiêm trọng hơn nữa thì các doanh nghiệp lệ thuộc vào xuất khẩu của Trung Quốc sẽ càng chịu áp lực lớn hơn. Theo tính toán của các chuyên gia thuộc Ngân hàng Đức (Deutschen Bank) ở Hồng Kông, nếu tăng trưởng ở Mỹ và EU 1 điểm % thì tăng trưởng xuất khẩu của Trung Quốc giảm tới 7 điểm %.
Một khi nền kinh tế Trung Quốc bị mất đà thì kinh tế Đức cũng bị ảnh hưởng. Năm 2010, Trung Quốc là khách hàng lớn thứ 6 về nhập khẩu hàng hóa của Đức. Thời gian qua, các nhà xuất khẩu ô tô Đức rất phấn khởi vì mức tiêu thụ sản phẩm tăng từ 50 đến 60%. Nhưng nay dường như đã qua rồi. Thí dụ Mercedes-Benz tháng 5/2011 bán được gần 17.000 ô tô ở Trung Quốc, nhưng sang tháng 7/2011 chỉ bán được 14.500 xe.
Nay Trung Quốc không còn là cứu tinh của nền kinh tế thế giới.