5 trọng tâm của Nghị quyết số 29-NQ/TW về công nghiệp hóa, hiện đại hóa Chính phủ yêu cầu xây dựng Chương trình hành động đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030 |
Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp.
Hình minh họa |
Từ năm 1986 đến nay, trải qua nhiều kỳ Đại hội Đảng, các mục tiêu, định hướng đường lối cũng có rất nhiều thay đổi đáng kể để phù hợp hơn với bối cảnh thực tế từng giai đoạn cũng như bối cảnh mới của quốc tế thế giới. Không thể phủ nhận những bước phát triển đáng khích lệ của kinh tế - xã hội nói chung và của ngành công nghiệp nói riêng trong suốt thời gian qua. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng còn nhiều điểm tồn tại cần phải chỉ ra và có giải pháp khắc phục sớm để đảm bảo mục tiêu đến 2030, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp như đã được đề ra trong Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17/11/2022, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045
Song song với đó, luôn có những quan điểm sai trái, xuyên tạc về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của các thế lực thù địch, phản động. Chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, mạng xã hội, việc phát tán các quan điểm sai trái, thù địch trở nên rất dễ dàng. Do vậy, nên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được đặt ngang hàng với bảo vệ nền tảng tư tưởng là điều tất yếu. Thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng, tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” trên tinh thần quán triệt quan điểm kết hợp hài hòa, chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Đó là nhiệm vụ cấp bách, vừa thường xuyên, vừa lâu dài; không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị; đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Để giải quyết được cả hai nhiệm vụ lớn trên, đòi hỏi cần có những chỉ đạo cụ thể, quyết liệt hơn nữa từ trên và sự nỗ lực nâng cao nhận thức nhằm đấu tranh mạnh mẽ với những luận điểm sai trái và kiên định theo con đường mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã chọn.
1. Chiến lược công nghiệp hóa mới dưới góc nhìn của ngành công nghiệp
a. Luận giải về chiến lược công nghiệp hóa
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 7/1994) đã xác định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Trong thời gian đầu, những tư tưởng, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản mới chỉ mang tính định hướng chung, các mục tiêu hay nội dung nhiệm vụ chưa được xác định rõ ràng. Trong các thời kỳ tiếp theo, Đảng ta đã có những bổ sung về lộ trình, phân chia các bước đi cụ thể (hơn) cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Đó là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiến hành qua ba bước, (1) Tạo tiền đề, điều kiện để công nghiệp hoá, hiện đại hoá; (2) Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và (3) Nâng cao chất lượng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Do đó có thể thấy rằng, công nghiệp hóa ở nước ta là cả một quá trình phát triển lâu dài, và trong quá trình phát triển đó, không chỉ tập trung vào phát triển riêng ngành công nghiệp, mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu trong từng ngành, từng lĩnh vực, và toàn bộ nền kinh tế - xã hội theo hướng công nghệ hiện đại.
Lịch sử công nghiệp hóa trên thế giới cũng cho thấy, quá trình công nghiệp hóa luôn gắn liền với các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, cũng như quá trình chuyển đổi nền kinh tế, từ trình độ công nghệ thấp, lên một trình độ công nghệ cao hơn, và từng bước tiến lên hiện đại. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử khác nhau, điểm xuất phát của từng nền kinh tế khác nhau, nên các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa sẽ lựa chọn theo các mô hình phát triển khác nhau, mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm và đưa đến các kết quả khác nhau. Có mô hình công nghiệp hóa coi trọng nguồn lực trong nước, mô hình khác lại coi trọng nguồn lực từ nước ngoài, và có mô hình là sự kết hợp hài hòa, giữa nguồn lực trong nước, và nguồn lực ngoài nước.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển, dự báo sẽ sớm tác động và thay đổi các hoạt động kinh tế và đời sống xã hội, đưa thế giới vào một thời kỳ phát triển mới. Đối với nền kinh tế nước ta, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đang mở ra những cơ hội phát triển, giúp đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, duy trì khả năng cạnh tranh, từng bước tiếp cận và bắt kịp các nước phát triển hơn trên thế giới. Cùng với xu hướng toàn cầu hóa, gắn liền với tiến trình và hoạt động, sẽ thúc đẩy gia tăng sự phụ thuộc, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới với nhau và làm lu mờ các đường biên giới quốc gia. Toàn cầu hóa cũng gắn liền với các thành tựu về khoa học-kỹ thuật, mỗi quốc gia sẽ trở thành một bộ phận của hệ thống kinh tế toàn cầu, có tác động tương hỗ lẫn nhau và chịu sự biến động kinh tế-xã hội chung của thế giới.
Trong quá trình công nghiệp hóa ở nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế cũng là một tất yếu của quá trình phát triển. Đặc biệt trong thời đại hiện nay, nền kinh tế nước ta không thể tăng trưởng và phát triển mạnh, nếu không thiết lập và mở rộng mối quan hệ với các nền kinh tế trên thế giới, để qua đó tạo thêm các điều kiện và cơ hội thu hút vốn đầu tư, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm tổ chức quản lý,… của các nước đi trước, giúp sức đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Sau hơn 35 năm “Đổi mới”, nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng, quy mô của nền kinh tế tăng nhanh (từ vị trí 88 thế giới năm 1990, tăng lên vị trí 45, năm 2018), Năng lực cạnh tranh công nghiệp (CIP) tiếp tục được cải thiện (xếp hạng 43 thế giới, tăng 24 bậc so với năm 2010), kinh tế Việt Nam đang từng bước, hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, từ bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, nền kinh tế nước ta còn đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen lẫn nhau, như: Tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao (khi so sánh với các nước trong cùng thời kỳ công nghiệp hóa); khoảng cách chênh lệch GDP bình quân đầu người so với thế giới còn ở mức khá lớn; chất lượng và năng suất lao động đạt thấp so với yêu cầu phát triển; tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào vốn đầu tư, hơn là dựa trên nền tảng chất lượng lao động và công nghệ cao, nên chưa đáp ứng được yêu cầu của đổi mới trong quá trình phát triển, dẫn đến tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước diễn ra chậm hơn so với dự kiến.
Do đó có thể đánh giá, nội dung của Chiến lược công nghiệp hóa mới đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2035 của nước ta là Chiến lược được xây dựng trong bối cảnh mới, hướng đến các giá trị cao hơn, thích ứng với cơ hội và thách thức mới, trong xu hướng phát triển và vận động của nền kinh tế thế giới.
Ngoài ra, Chiến lược công nghiệp hóa mới ở nước ta, còn là một quá trình thực hiện tư duy mới về công nghiệp hóa trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và tận dụng tốt cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, để thúc đẩy nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp, và toàn bộ nền kinh tế đất nước.
b. Tiêu chí công nghiệp hóa ở Việt Nam hiện nay
Từ cơ sở khái niệm, “Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển để trở thành một nước công nghiệp”, nhiều tổ chức quốc tế cùng các nhà kinh tế, nhà khoa học chính trị trên thế giới đã có nhiều các nghiên cứu về mô hình công nghiệp hóa, và cũng đưa ra nhiều hệ thống các chỉ tiêu công nghiệp hóa, tương ứng cho từng bước hay từng giai đoạn của quá trình phát triển. Đáng chú ý, trong mỗi thời kỳ, các chỉ tiêu này đều được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp hơn với quá trình phát triển và sự vận động của nền kinh tế và xã hội thế giới.
Trên cơ sở các nghiên cứu của quốc tế, các bài học kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, cũng như các nước đang tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, nhiều học giả trong nước cũng đã tổng kết, nghiên cứu và từng bước cụ thể hóa các mục tiêu công nghiệp hóa ở Việt Nam. Các chỉ tiêu này, đòi hỏi không chỉ phù hợp với thế giới, mà cũng phải phù hợp và “dễ nhận biết hơn” với thực tiễn của nền kinh tế xã hội và tiến trình phát triển của nước ta.
Đến nay, các nghiên cứu và tổng kết ở trong nước về công nghiệp hoá có nhiều mức độ, góc nhìn khác nhau, song cơ bản đều tập trung ở 03 nhóm chỉ tiêu với các nội dung cơ bản như sau:
Nhóm “Chỉ tiêu phát triển kinh tế”, bao gồm: (1) GDP/người; (2) MVA/người; (3) tỷ trọng 02 ngành công nghiệp và dịch vụ hoặc ngành nông nghiệp trong GDP; (4) tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; (5) tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp chế tạo, hàng công nghệ cao trong tổng xuất khẩu; (6) xuất khẩu/GDP;…
Nhóm “Chỉ tiêu phản ánh phát triển xã hội”: Bao gồm các nội dung (1) cơ cấu lao động ngành nông nghiệp hoặc công nghiệp trong nền kinh tế; (2) tỷ lệ đô thị hóa; (3) tỷ lệ lao động qua đào tạo; (4) chỉ số phát triển con người (HDI); (5) tỷ lệ thất nghiệp; (6) số lượng bác sĩ/số dân; (7) tuổi thọ trung bình; (8) chỉ số bình đẳng giới;…
Nhóm các chỉ tiêu tham khảo khác: Gồm có (1) giá trị kim ngạch xuất, nhập khẩu; (2) đầu tư FDI; (3) chỉ tiêu năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; (4) năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp; (5) tiêu chí tài nguyên môi trường; (6) đóng góp của TFP trong tăng trưởng kinh tế;…
Từ nội dung của các nhóm chỉ tiêu trên cho chúng ta thấy, trong nền kinh tế hiện đại ngày nay, khó có sự thống nhất về khái niệm tiêu chí nước công nghiệp hay nước công nghiệp hóa; việc đưa ra các chỉ tiêu công nghiệp hóa và xây dựng Chiến lược công nghiệp hóa cho một quốc gia, hay một nhóm các quốc gia là một khái niệm rất rộng, liên quan đến các vấn đề của nhiều ngành/lĩnh vực kinh tế - xã hội (mặc dù “Nền kinh tế công nghiệp hoá” đã được chấp nhận khá rộng rãi về mặt khái niệm, nhưng các tiêu chí trên thực tế chưa được thống nhất rõ ràng).
Riêng với tiến trình công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay, chỉ có thể xác định theo nhận thức, quan điểm, cũng như đưa ra các mục tiêu phát triển trong hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của đất nước, trong khi vẫn phải phù hợp với bối cảnh và xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới.
c. Tầm nhìn tổng quát chiến lược công nghiệp hóa ở nước ta từ góc độ ngành công nghiệp
Từ góc nhìn của ngành công nghiệp, tầm nhìn chiến lược công nghiệp hoá của nước ta có thể đưa ra như sau:
Tầm nhìn tổng quát:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa để sớm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ngày càng hiện đại; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ về khoa học và công nghệ, đi đôi với chủ động, tích cực hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong đó, nguồn lực nước ngoài đóng vai trò quan trọng, nguồn lực trong nước có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
Hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và nâng cao đời sống nhân dân, hướng đến một xã hội văn minh và thịnh vượng.
- Phát triển ngành công nghiệp: Tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao tỷ trọng đóng góp của công nghiệp trong GDP; tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp công nghệ cao trong công nghiệp chế biến, chế tạo.
- Xuất nhập khẩu hàng hóa: Xuất khẩu tiếp tục là động lực chủ yếu của tăng trưởng nền kinh tế. Phát triển xuất khẩu chính là con đường để Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu, hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.
Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao chất lượng hàng hóa, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chuỗi giá trị nội địa trong sản phẩm xuất khẩu.
Khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, trên cơ sở khai thác lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do với các nước có nền công nghiệp phát triển.
- Thu hút đầu tư nước ngoài: Thay đổi chiến lược tiếp nhận FDI và cách thức tiếp cận với công nghệ của thế giới. Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về thu hút đầu tư nước ngoài theo hướng chọn lọc các dự án sử dụng công nghệ hiện đại, sản phẩm có tính cạnh tranh cao, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn xuyên quốc gia.
- Phát triển học và công nghệ: Hội nhập kinh tế quốc tế và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm bối cảnh để đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ trong sản xuất công nghiệp, tạo lan tỏa và dẫn dắt việc cơ cấu lại toàn ngành công nghiệp và nền kinh tế.
2. Nhận diện các quan điểm sai trái, xuyên tạc về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong thời gian qua, trước những hạn chế, yếu kém, nhất là việc Việt Nam chưa đạt được một số chỉ tiêu về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) so với định hướng đặt ra để năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp, đã có không ít ý kiến trái chiều hướng đến phê phán đường lối CNH, HĐH và việc triển khai CNH, HĐH ở Việt Nam. Các thế lực thù địch, cơ hội cũng tung ra những luận điệu sai lệch, phiến diện về quá trình CNH, HĐH ở nước ta.
Tựu trung, dù biểu hiện khá đa dạng, nhưng có thể thấy các ý kiến sai lệch về CNH có ba mức độ: (1) Mức độ nghi ngờ, không tin tưởng vào sự thành công của chính sách CNH do những sai lầm và hậu quả mà nó mang lại; (2) mức độ thứ hai cho rằng Việt Nam không nên thực hiện CNH, chuyển sang phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hóa; (3) mức độ thứ ba, cho rằng Việt Nam không hiểu rõ CNH, thực hiện CNH không rõ mục tiêu và một chính sách CNH sai lầm, chạy theo lợi ích nhóm, đòi khôi phục sở hữu tư nhân về đất đai, không chấp nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Về mặt lý luận cũng như tiễn phát triển CNH, HĐH đều cho thấy những nhận thức trên là hoàn toàn sai lầm, bịa đặt.
Trước hết, phải khẳng định những nghi ngờ về sự thành công của CNH, HĐH ở Việt Nam là thiếu căn cứ, không nắm rõ hoặc cố tình lờ đi những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện CNH, HĐH những thập niên vừa qua.
Tuy quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam còn không ít hạn chế, song, phải khách quan thấy rằng, quá trình CNH, HĐH của Việt Nam đã có những kết quả tích cực, không thể phủ nhận, góp phần rất quan trọng trong công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới cũng như góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Với việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội mà cốt lõi là quá trình CNH, HĐH đã đưa nước ta từ nước nông nghiệp lạc hậu, thiếu đói triền miên, nay trở thành nước có thu nhập bình quân đầu người đạt 3.000USD (2019), là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Việc thực hiện quá trình CNH, HĐH rút ngắn đã góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng GDP, bình quân đạt 4,45% giai đoạn 1986 - 1990, 6,99% giai đoạn 1991 - 2000, 7,26% giai đoạn 2001 - 2010. Giai đoạn 2011-2015 tốc độ có giảm còn 5,9% nhưng những năm sau phục hồi rõ nét, cụ thể các năm 2017 đạt 6,81%, năm 2018 đạt 7,08% và khoảng 7,02% năm 2019. Cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng CNH, HĐH. Một số ngành công nghiệp như: Điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, chế tạo thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây dựng…đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và nâng cao đời sống nhân dân
Quan điểm cho rằng chính sách CNH, HĐH của Việt Nam mơ hồ, không có mục tiêu, là sai lầm, chạy theo lợi ích nhóm, và cần phải khôi phục sở hữu tư nhân về đất đai, xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong quá trình CNH, HĐH là thể hiện sự cố tình phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới nói chung, của những kết quả tích cực mà quá trình CNH, HĐH đưa lại. Họ vin vào những thiếu sót, sai lầm mà chính chúng ta đã nhận thức và điều chỉnh cũng như những vụ việc tham nhũng bị phơi bày, bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc để quy kết cho việc thực hiện một chính sách CNH không rõ mục tiêu, một kế hoạch CNH mơ hồ, đẩy đến khủng hoảng kinh tế - xã hội. Và không có gì lạ khi họ quay lại đòi xóa bỏ sở hữu toàn dân về đất đai, đòi xóa bỏ vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước nhằm nắn chỉnh con đường Việt Nam chệch khỏi quỹ đạo định hướng XHCN.
Đảng ta đã khẳng định tính tất yếu CNH, HĐH trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điều đó cũng đặt ra yêu cầu với tiến trình CNH, HĐH là cùng với chuyển biến về mặt kinh tế - kỹ thuật phải tạo ra và đồng thời là chuyển biến về mặt kinh tế - xã hội. Thực tiễn phát triển của không ít quốc gia, nếu thiên lệch chú ý đến tăng trưởng, "say" tốc độ tăng GDP, thì mục tiêu dài hạn về phát triển bền vững sẽ đổ vỡ.
3. Một số giải pháp đấu tranh với những luận điểm sai trái, xuyên tạc
Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh có nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đát nước, một số giải pháp đề xuất đối với Đảng bộ Viện nghiên cứu chiến lược, chính sách Công Thương như sau:
Sử dụng thông tin chính xác: Trong quá trình thực hiện các công việc cần thiết phải nỗ lực tìm kiếm và sử dụng nguồn thông tin đáng tin cậy từ các nguồn uy tín như các nghiên cứu, tổ chức chính phủ, các trang web tin cậy hoặc nguồn tin được kiểm chứng. Đối chiếu thông tin từ nhiều nguồn khác nhau để đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy của nó.
Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và nhận thức: Tạo ra chương trình, nhiệm vụ, hoạt động để lồng ghép tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết của cán bộ, người lao động. Thông qua việc cung cấp thông tin chính xác, giải thích rõ ràng và minh bạch, ta có thể tạo ra sự thay đổi nhận thức và đấu tranh với quan điểm sai trái.
Lan truyền thông tin đúng: Nếu gặp phải những quan điểm sai trái hoặc xuyên tạc, hãy tìm cách lan truyền thông tin chính xác và đáng tin cậy để giúp những người khác nhận biết và hiểu được sự thật.